Linh
hồn trong quan niệm tôn giáo đă có từ hàng ngàn năm nay, con người chỉ
biết đó là hiện thân của người đă chết, không lời giải thích rơ rệt mà
hầu như mọi người đều tin là có thật. Trong ư thức này và quan niệm
"luân hồi" của đạo Phật, Bác sĩ Tâm lư học Dr. Hazel Denning tổng hợp
lại để t́m hiểu tâm lư người bệnh ảnh hưởng qua sự tái sanh và duyên
nghiệp nhầm giải thích cho họ thấy rằng những chuyện xảy ra trong qúa
khứ không quan trọng. Chủ yếu là những ǵ người bệnh học hỏi được từ
những biến cố ấy để được sự an lành. Dường như đây mới là nguyên tắc căn
bản chữa tri tâm lư con người hữu hiệu nhất. Vậy linh hồn có liên quan
ǵ trong kiếp luân hồi, v́ linh hồn chỉ là một người, kiếp luân hồi lại
là 2 người. Chúng ta bắt đầu từ câu chuyện :
"Người cầu ṿng"
Sự kiện xảy ra năm 1998 tại Kham, khu vực hẻo lánh phía đông Tây Tạng,
sự biến mất kỳ lạ của vị Lạt ma Khenpo A-chos. Vào tuổi 80, vị Lạt ma
vẫn hoàn toàn khoẻ mạnh và qua đời trên giường của ḿnh. Ngay sau đó,
cầu vồng xuất hiện trên căn pḥng nhỏ của ông suốt cả ngày. Câu chuyện
thần bí lan ra khắp nơi. Cha Francis Tiso – một cha đạo ḍng thánh
Benedict tại Mỹ chuyên gia nghiên cứu về đạo Phật, có học vị tiến sĩ
trong lĩnh vực này. Cha Francis Tiso tổ chức một chuyến đi đến Kham để
ghi lại lời kể của những người đă chứng kiến sự kiện. Người mà cha Tiso
muốn gặp nhất là vị Lạt ma đă được các học tṛ của Lạt ma A-chos hỏi ư
kiến. Vị Lạt ma nói với cha Tiso rằng sự biến mất của Lạt ma A-chos
là do một lực vật chất xuất phát từ trong linh hồn của ông ấy. Vị Lạt ma
đưa cho cha Tiso xem một bức ảnh của Lạt ma A-chos khi ông đă qua đời.
Bằng mắt thường có thể nh́n thấy rất rơ một luồng ánh sáng phát ra từ
thân thể của Lạt ma A-chos. Xem bức ảnh, cha Tiso thốt lên: “Đây là sự
giao hoà giữa cái có thể và không thể, giữa một con người hiện hữu và
con người siêu phàm. Một ngày nào đó chúng ta sẽ t́m được cơ sở để chứng
minh rằng nó có thật”, lập luận đó quá mơ hồ và không thể đủ độ tin cậy
khi được kiểm chứng bằng các nghiên cứu khoa học.
Những kiểm chứng khoa học
Trong số đó là bác sĩ Duncan MacDougall. Sau khi tiến hành thí nghiệm
trên 7 người chết, ông phát hiện rằng ngay sau khi qua đời, người chết
giảm đi từ 11g đến 43g. Ông cho rằng đó là phần vật chất mà người ta
thường gọi là linh hồn. Về sau có người giải thích:Phần trọng lượng bị
mất đi là sự bốc hơi của lượng nước có sẵn bên trong cơ thể.
Sau này có Gerard Nahum, Giám đốc nghiên cứu công ty dược phẩm Berlex
bỏ ra 20 năm chỉ để nghiên cứu lĩnh vực này. Theo Nahum: Để xác định sự
tồn tại của linh hồn là phải t́m được những chuỗi điện từ phát ra từ thi
thể người chết. Ông đặt hàng loạt những máy ḍ hiện đại xung quanh thi
thể (máy viba, máy ḍ tia hồng ngoại, tia gama, điện từ, …) để t́m
ra “linh hồn”. Nhưng khi ông thử tŕnh bày ư tưởng của ḿnh với các
trường đại học tại Mỹ th́ tất cả đều từ chối.
Tại Đại học Virginia, chuyên gia tâm thần học là Gruce Greyson cũng có
các nghiên cứu liên quan đến sự tồn tại linh hồn. Greyson là người đầu
tiên tập trung vào tâm lư của những người đang ở ranh giới của sự sống
và cái chết. Ông phát hiện ra rằng một vài người đang hấp hối đều nh́n
thấy một luồng ánh sáng xanh rất mạnh. Nhưng thực ra Greyson lại không
hoàn toàn tin tưởng vào sự tồn tại của linh hồn. Qua 30 năm t́m hiểu về
trạng thái tâm thần của người hấp hối, ông đă phát hiện thấy khoảng 10%
số người trong số các bệnh nhân suy tim đều có dấu hiệu hoạt động của
năo trong khi họ đang bất tỉnh. Greyson cho rằng, nếu thật sự có linh
hồn, th́ những người bị suy tim sau khi tỉnh lại sẽ biết được màu sắc
của màn h́nh đặt tại pḥng bên cạnh. Qua 50 người được thử nghiệm, nhưng
không một ai biết được màn h́nh có màu ǵ. Greyson giải thích rằng đó là
do tác dụng của thuốc gây mê đă cản trở sự thoát ra của linh hồn.
Pim van Lommel, bác sĩ chuyên khoa tim người Đan Mạch cũng đồng ư với
quan điểm của Greyson. Lommel cho rằng con người không chỉ có một ư
thức, trong khi họ trong t́nh trạng hấp hối th́ những ư thức khác hoạt
động mở rộng phạm vi của nó nhiều hơn so với bất cứ thời điểm nào trước
đó. Trong khi đó, thần kinh trung ương của họ vẫn đang ngừng hoạt động.
(Ư thức là sản phẩm của năo bộ, ư thức sẽ không thể tồn tại nếu năo bộ
ngừng hoạt động. Như vậy những thí nghiệm trên đều chứng minh cho điều
ngược lại).
Stuart Hameroff và Roger Penrose thuộc Trường Oxford giải thích sự tồn
tại của linh hồn bằng quá tŕnh lượng tử. Khi cơ thể một người ngừng
hoạt động, máu sẽ không được chuyển đến các ô này, và chúng cũng ngừng
hoạt động. Nhưng sự di chuyển của các lượng tử th́ không mất đi. Chúng
sẽ thoát ra bên ngoài năo bộ và ghi nhận những ǵ tồn tại ở không gian
xung quanh. Nếu người đó tỉnh lại, các lượng tử sẽ quay trở lại năo và
hoạt động với chức năng thông thường của chúng. Những ǵ chúng ghi lại
được khi thoát ra bên ngoài cũng được năo bộ tiếp nhận. (Do đó tại sao
một người hấp hối nhưng sau đó được cứu sống lại có thể biết được những
sự kiện mà anh ta không hề tận mắt chứng kiến hoặc được nghe kể lại).
Tiếp tục mở rộng giả thuyết của Hameroff và Penrose, bác sĩ Ian
Stevenson đă nghiên cứu về khả năng các chuỗi lượng tử đó sẽ được tiếp
nhận trong bộ năo của trẻ sơ sinh, hay nói cách khác đó chính là sự tái
sinh. Sau khi Ian Stevenson mất, con trai ông là Tucker tiến hành phỏng
vấn rất nhiều trẻ em, ông đă tập hợp được 1. 400 em có khả năng biết
được những sự kiện xảy ra trước khi chúng sinh. Thậm chí một vài em c̣n
có thể kể rất rơ những sự kiện phát triển rất sớm của lịch sử loài
người.
Thực tế cho đến nay, dù có tập hợp được tất cả các công tŕnh nghiên
cứu khoa học cũng không thể nào biết được chính xác sự tồn tại của linh
hồn, và nếu có th́ chúng sẽ tồn tại ở dạng nào. Như lời của vị Lạt ma mà
Cha Francis Tiso gặp tại Kham đă nói: “Đó không phải là thứ dành cho đôi
mắt, mà là của trái tim. Đối với chúng ta, có lẽ sự nh́n nhận bằng đôi
mắt và cả sự cảm nhận từ trái tim sẽ cho câu trả lời chính xác nhất”.
(Đại kỹ nguyên)
Bí ẩn của linh hồn
Những kiểm chứng khoa qua : Bác sĩ Duncan MacDougall chủ tâm về
trọng lượng linh hồn. Gerard Nahum tin vào những máy ḍ hiện đại để t́m
ra “linh hồn”. Chuyên gia tâm thần học Gruce Greyson tập trung vào tâm
lư của những người đang ở ranh giới sự sống và cái chết do bị suy tim
sau khi tỉnh lại linh hồn sẽ biết được màu sắc những vật đặt chung
quanh. Pim van Lommel, bác sĩ chuyên khoa tim cho rằng con người không
chỉ có một ư thức, trong t́nh trạng hấp hối th́ những ư thức khác
cũng hoạt động mở rộng phạm vi nhiều hơn mặc dầu thần kinh trung ương
của họ vẫn đang ngừng hoạt động. Stuart Hameroff và Roger Penrose
th́ giải thích sự tồn tại của linh hồn bằng quá tŕnh lượng tử, thế
rồi bác sĩ Ian Stevenson đă nghiên cứu về khả năng các chuỗi lượng tử đó
sẽ được tiếp nhận trong bộ năo của trẻ sơ sinh. Sau khi Ian Stevenson
mất, con trai ông là Tucker tiến hành phỏng vấn rất nhiều trẻ em có khả
năng biết được những sự kiện xảy ra trước khi chúng sinh.
Khoa học đă bỏ nhiều công sức để chứng minh, nhưng linh hồn vẩn là một
bí ẩn chưa được giải đáp. Greyson giải thích rằng đó là do tác dụng của
thuốc gây mê đă cản trở sự thoát ra của linh hồn. Quan điểm Pim van
Lommel th́ lại mơ hồ: V́ Ư thức là sản phẩm của năo bộ, ư thức sẽ không
thể tồn tại nếu năo bộ ngừng hoạt động. Stuart-Hameroff, Roger-Penrose,
Bác sĩ Ian Stevenson và con trai Tucker chấp nhận trong miển cưỡng. Khoa
học không thể nào biết được chính xác, cuối cùng vẩn theo lời vị
Lạt-ma: “Đó không phải là thứ dành cho đôi mắt, mà là của trái tim".
Vậy chúng ta thử dùng đôi mắt và cảm nhận từ trái tim để biện chứng
linh hồn có thật hay không?
Sau khi con người chết đi thể xác nhẹ bớt 21 gram, sự giảm trọng lượng
qua cách nh́n của tôn giáo đó là sự tách rời linh hồn khỏi thể xác, và
họ gọi đây là trọng lượng của linh hồn.
Trong khoa-học không có giải thích sự kiện này, chỉ riêng bác sĩ Duncan
MacDougall tiến hành thí nghiệm trên 7 người chết, ông phát hiện rằng
ngay sau khi qua đời, người chết giảm đi từ 11g đến 43g. Ông cho rằng đó
là phần vật chất mà người ta thường gọi là linh hồn. Về sau có người
giải thích: Phần trọng lượng bị mất đi đó là sự bốc hơi của lượng nước có
sẳn trong cơ thể con người.
Để t́m hiểu sâu rộng thêm trong cuộc sống, mọi người đều biết:
Chúng ta cần có không khí để thở, trong không khí có 1 thể
tích oxygen và 4 thể tích nitrogen, nhưng khoa học chỉ xác nhận không có
oxygen con người sẽ chết, nhưng không ai nói đến 4 thề tích nitrogen vào
cơ thể rồi như thế nào ?
Trên thực nghiệm cho chúng ta biết nếu con người chỉ thở bằng oxygen mà
không có nitrogen th́ cũng chết, vậy oxygen thật sự giúp cho sự sống như
thế nào ? Nitrogen vào cơ thể đi về đâu?
Thật ra oxygen và nitrogen đều cần cho sự sống của chúng ta.
Sự trợ giúp đầu tiên của oxygen là giúp cơ thể thải đi CO (mono
carboxide) dưới dạng CO2:
2(CO)+O2 cho ra 2CO2
Công dụng chính của oxygen là cần mang CO ra khỏi cơ thể con người dưới
dạng CO2, mono-carboxide được phát sinh do bởi sự đốt carbon không hoàn
tất trong cơ thể, khi CO chiếm đầy trong huyết quản th́ màu máu
vẩn đỏ nhưng không thể tiếp nhận O2 nửa, do đó sự sống con người chấm
dứt.
Khi oxygen kết hợp với mono-carboxide cho ra CO2 trong máu tạo thành
những tỉnh mạch màu sám truyền vào "tâm nhỉ phải", thông qua "tâm thất
phải" truyền qua ḷng phổi. Từ thời điểm này có 2 hiện tượng:
1. -CO2 tách rời khỏi máu rồi được thải ra ngoài cơ thể (phát nhiệt).
2. -Bảo-ḥa O2+4N2 vào phổi bị đánh vở (phát nhiệt).
Đây là lư do tại sao máu con người "nóng".
Từ phổi các mao huyết quản lại tiếp nhận không khí (O2+4N2) rồi chuyển
vào gan, (máu từ đây nóng hơn máu từ "tâm thất phải" vào phổi
nhưng không qúa 2, 7 độ C ), từ gan máu chuyển vào "tâm nhỉ trái" xuống
"tâm thất trái" rồi lưu chuyển tuần hoàn khắp trong cơ thể. Như thế
nitrogen cũng được truyền đến các tế bào trong cơ thể con người ? ( Sự
tuần hoàn trong cơ thể tôi không rơ ràng lắm, thông cảm).
Khí nitrogen giúp sự bồi dưởng cơ thể con người và thường gọi đó là
chất đạm. Nitrogen sẽ được hấp thu tự nhiên bởi 4 phần riêng biễt trong
cơ thể con người:tế bào xương, tế bào thịt, tế bào tạng phủ và tế bào
năo. Nhưng khi con người chết đi bộ nảo sẽ bị hủy diệt trước tiên,
kế đến ngũ tạng, rồi đến cơ bắp thịt, và bộ xương vẩn tồn tại lâu dài,
điều này nói lên: N2 có kết hợp bảo-ḥa với Ca trong xương: (Ca+12N2,
m=29) nhờ vơ xương cứng chắc bộ xương được tồn tại lâu dài.
Khi sự chết đến, con người không hô hấp làm cơ thể không nhận nitrogen
nữa và bắt đầu liên tục mất N2 cho đến khi hoàn toàn bị hủy diệt, bởi
thế lượng giảm 21g ban đầu khi con người vừa chết là lượng nitrogen tự
do chưa kịp bồi dưởng cơ thể thoát ra chứ không phải do sự bốc hơi lượng
nước trong cơ thể con người, v́ thế trọng lượng con người nhẹ bớt đi 21
gram ( 3/4 của N2=28 là 21), đây là một hiện tượng khoa học thực sự, chứ
không phải là trọng lượng của linh hồn.
Bởi không khí cần thiết cho sự sống của con người nên oxygen và
nitrogen trở thành quan trọng:
-Khi O2 vào cơ thể th́ được thải ra theo dạng CO2 ra ngoài cơ thể (trên
thực tế vẩn c̣n một ít O2 c̣n sót lại trong cơ thể, là mầm oxit hóa gây
nên bệnh sau này, cũng chính từ điểm "một ít O2 c̣n sót lại" tạo cho cơ
thể không ngừng hoạt động chống lại mầm bệnh để giữ thân thể khỏe mạnh).
-Riêng phần khí nitrogen từ không khí, khi vào thân thể là chất "bảo
tŕ tế bào" trong thân thể, N2 này tồn tại măi trong thân thể con
người đến chết, c̣n những protein (đạm tố từ thực phẩm) chỉ có nhiệm vụ
duy tŕ sự tuần hoàn trong cơ thể, con người có khỏe hay không là do
sự ăn uống này.
-Hầu hết những nhóm tế bào khác nhau của cơ thể đều sinh ra và chết đi
trong vài tuần hoặc vài tháng, rồi được thay thế bằng những tế bào mới,
nhưng các tế bào năo không có sự hủy diệt, mà chỉ trở thành “già đi”
theo số tuổi của bạn. (Dr Jill Taylor). Trong phát biểu này chúng ta
thấy rơ: phần lớn N2 vào thân thể, tế bào năo chiếm phần lớn, c̣n tế
bào xương, tế bào thịt, tế bào tạng phủ vẩn chưa đầy đủ N2 nên có số tế
bào chết đi rồi tụy tạng (lá lách, pancreas) tái sinh tế bào mới do bởi
insulin và chất men thắm qua màng bao tử để thủy phận thức ăn thành phân
tử nuôi dưỡng tế bào, trong Đông y gọi lá lách là nơi sinh sản máu,
lá gan là bộ phận chứa máu.
-Khí nitrogen bảo tŕ tế bào con người, tự nó có một mă số riêng cho
từng người, không một ai gióng nhau, nó có tần số giao động của máu
từ tim đến năo, nên nó có "mă số" riêng biệt của các tế bào năo trong
suốt cuộc đời con người, v́ tế bào năo không có sự hủy diệt, nên dù con
người đă chết, nhưng nitrogen từ năo vẩn là biểu tượng của từng con
người.
Cũng như chúng ta biết được con người có đến 99, 4% DNA cấu tạo tương
tự như dă nhân nhưng không có nghĩa dă nhân là thủy tổ của loài người,
giữa loài người với nhau tuy có cùng loại DNA, nhưng chỉ khác nhau có 0,
01% (1% của 1%) trên cách cấu trúc mà mắt mũi, màu da, cao thấp, mập ốm,
dáng vẻ... không giống nhau. (Dr Jill Taylor). Do sự khác nhau này nên
cái bóng N2 không rơ ràng, phần đầu gần như là thật, phần thân và tứ chi
mơ hồ.
Từ nhận xét Bà Jill Taylor cho tôi nói lên:"Những nitrogen bay ra từ
người chết sẽ quần tụ cùng nhau trong dạng vô h́nh, biểu tượng linh hồn
của các tế bào cho từng cá thể con người". Nói rơ ràng hơn đó là linh
hồn con người. V́ linh hồn được tạo từ hạt nitrogen, nên linh
hồn được ẩn trong không khí bay khắp Địa cầu này v́ nó là N2 thuần túy.
Chính nitrogen trong không khí giữ linh hồn nguyên vẹn, linh hồn chỉ có
dáng vẻ con người không hoàn tất, v́ chỉ có phần "Đầu" hiện thân hầu như
là hoàn chỉnh, v́ tế bào năo không chết mà vẩn sống theo tuổi thọ con
người, nitrogen ở đây vẩn nối kết thành một thể trong bầu khí
quyển của Địa cầu, v́ nó có một mă số riêng, khi nó bắc nhận
nitrogen cùng mă số như nó, nó sẽ đến gần, chỉ riêng người có cùng mă số
nitrogen với nó mới thấy được cái bóng linh hồn của người đă chết, những
người này thường là thân thuộc, bạn thân... thường có nhiều giờ gần
bên xác chết trước khi chôn cất, họ là những người nhận nhiều N2 có
cùng mă số nitrogen của người chết.
Do đó chúng ta thấy nói về "linh hồn" thường là các thầy, cố đạo, người
thân. Linh hồn thường là cảm hứng cho khoa Thần học, nhưng trong đạo
Chúa có người không tin về "luân hồi".
Thực ra "linh hồn" và "luân hồi" có cùng một nguyên nhân là đều từ mă
số nitrogen của người chết quy trong không khí bay khắp Địa cầu, khi
chúng bắc nối được những phụ nữ thai nghén có mă số nitrogen cùng nhau
hoặc gần như nhau, th́ nó đến gần, sự hô hấp đó tạo ra những thai nhi
mang tính cùng kư ức với người đă khuất, do đó có những trẻ có khả năng
biết được những sự kiện xảy ra trước khi chúng sinh hoặc biết rơ những
sự kiện phát triển rất sớm của lịch sử loài người là do linh hồn của
người đă từng trăi những sự kiện xảy ra, trong đạo Phật đây là "kiếp
luân hồi", thực ra nó chỉ là "năo bộ" của người đă chết trong cái thân
mới, đó không phải là "linh hồn" trong cái nghĩa là "nguyên cả con
người ảo". Do đó chúng ta sẽ vẩn c̣n nghi vấn, bí ẩn của linh hồn có
thực là từ N2 trong con người thoát ra kết thành hay nó sẳn có trong
từng con người của chúng ta ?
Như sự tŕnh bày của các nhà khoa học ở trên, chúng ta thấy họ
nhận linh hồn là có thật, nhưng thực ra linh hồn có là vật thể hiện thực
hay chỉ là một cái bóng kư ức của những người hoài vọng qúa khứ để giải
bày cho hiện tại, v́ linh hồn không biểu hiện cho tương lai.
Lư giải sự bí ẩn này thật là một nan đề trong quan niệm khoa học, dù
rằng sự tŕnh bày ở trên đă tận mắt quan sát qua cảm xúc của trái tim,
nhưng không có chứng minh cũng là công dă tràng.