Chần chừ mãi, sau đúng một năm (10/2009->10/2010)
với sự động viên của bạn bè tôi bắt tay vào viết hồi ký kể lại chặng
hành trình đã qua (Nha Trang-Hà Nội-Tây Bắc).
Thạnh mang sứ mệnh của dòng tộc phía mẹ đi tìm mộ
cậu ở Phú Thọ.
Khoa mới sắm xe và cần phải đến Quảng Ninh vì công
việc làm ăn.
Phan không có lý do gì cả, chỉ muốn biết Hà Nội và
muốn thoát ra khỏi căn bệnh đau bao tử.
Mặc dù đang mùa mưa bão, ba chúng tôi vẫn quyết tâm
lên đường.
Sắm sửa linh tinh, mang theo cả nước mắm. Khoa háo
hức vì mới mua xe và mới biết lái xe, muốn chạy thật nhiều cây số để rèn
tay nghề và thỏa thích. Chàng ta chuẩn bị nào bản đồ, sách hướng dẫn du
lịch,… Thạnh chuẩn bị thuốc và dụng cụ y tế phổ thông. Ba thằng ba lý do
khác nhau quyết tâm, hăm hở lên đường.
Chúng tôi rời Nha Trang lúc bốn giờ sáng, trời mưa
nhẹ, đến Đại Lãnh một bên là biển, một bên là rừng, ở giữa là đường bộ
và đường tàu chạy song song nhau. Ghé ăn sáng, mua chuối bỏ vào thùng đá
liên tục có đến được Hà Nội không?
Giữa Khánh Hòa và Phú Yên là đèo cả ngọan mục, có
Hòn Đá Bia huyền thoại, có Vũng Rô bi tráng trong cuộc chiến tranh
Nam-Bắc. Sau năm 1975 lại là điểm tranh giành khốc
liệt giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Thật là bản chất “CON-NGƯỜI”.
Trúc Chi trong “Tiếng kêu của con chim gõ kiến”.
Đã nhiều lần đi qua nhưng Qui Nhơn Bình Định vẫn gây
nhiều ấn tượng cho dân vùng biển chúng tôi. Phóng khoáng và giàu có tiềm
năng, biết khi nào tiềm năng được giải phóng để dân nghèo Phú Yên, Bình
Định không lang thang bán vé số và mua ve chai ở Nha Trang nữa…
Chúng tôi đi trong mưa suốt cả ngày, mưa phía trước,
mưa phía sau lúc nặng, lúc nhẹ, bọt tung trắng xóa hai bên xe. Chúng tôi
lướt trong màn mưa của áp thấp nhiệt đới. Trong xe đầy đủ thức ăn, nước
uống và ba thằng đang sung sức. Chúng tôi đang ở chặng đầu của chuyến
hành trình giải quyết công việc và du lịch.
Qua Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng suốt chặng đường
vẫn còn dư âm của cơn bão đi qua, cây gãy đỗ, nước vẫn tràn đồng, … Quốc
lộ một chạy giữa cánh đồng miền trung, nào bãi ngô, đồng lúa, cầu đường
bộ, cầu đường sắt, sông, núi cứ lần lượt lướt qua mắt chúng tôi. Đồng
quê miền trung Việt Nam còn nghèo lắm, một dãi đất khô cằn và chịu nhiều
bão lụt. Chúng tôi chưa thể vào phố cổ Hội An, hẹn lúc quay về vì đích
đến là Hà Nội, Quảng Ninh, Phú Thọ.
Qua hầm Hải Vân hoành tráng và hiện đại vào ban đêm,
một thoáng ước mơ về một Việt Nam giàu có. Một đèo Hải Vân lãng mạn, mây
bay đỉnh núi, vực sâu biển cả bọt tung trắng xóa. Những văn nghệ sĩ,
những ai có máu lãng mạn thì xin đi theo đường cũ. Chúng tôi đã đi qua
bên lề của một Đà Nẵng năng động bậc nhất miền trung. Nghỉ tại Lăng Cô,
ngày đầu tiên đã vượt qua sáu trăm kí lô mét. Một đêm Lăng Cô mát nhẹ
…Sáng dậy loay hoay chuẩn bị xe, bộ phận bơm xăng có hơi trục trặc,
không sao chỉ chậm một chút thôi, chúng tôi lên đường. Lăng cô sớm mai
thật đẹp, vùng biển cong cong ôm mềm mại bãi cát trắng thiên nhiên như
có một họa sĩ tài ba đang tô vẽ. Mong rằng chúng ta hãy trân trọng đừng
đang tâm bôi bẩn và tàn phá chúng.
Theo quốc lộ một xuyên Việt, chúng tôi đi về phía
bắc đất nước, ngang qua Huế kinh đô cũ với bao lăng tẩm đền đài, bao
thăng trầm và bi tráng. Chúng tôi hẹn với nhau lúc quay về. Xuống xe
chụp hình và ngỡ ngàng với vĩ tuyến mười bảy có con sông Bến Hải với cầu
Hiền Lương, nơi chia cắt hai miền đất nước. Miền Bắc và miền Nam Việt
Nam phải bao nhiêu năm phải đổ bao nhiêu xương máu để nối hai bờ.
Qua khỏi Quảng Trị đến Quảng Bình quốc lộ một thường
chạy gần biển, ghé quán bên đường ăn trưa – Quán Hàu (Đồng Hới), nhà sàn
gỗ, phía dưới là nước tiếp liền những cụm rừng nhỏ, xa kia về phía bên
đường một chút là vùng biển lộng gió, món gà luộc với các loại rau mùi
xoăn nhỏ rất thơm…
Qua đèo Ngang cảnh vật nhỏ bé xinh xắn, mềm mại nên
Bà Huyện Thanh Quan không tức cảnh sinh tình sao cho được khi đứng đó,
ngày dần qua, bóng chiều bảng lảng:
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà.
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
Từ Quảng Bình đi Hà Tĩnh đến Nghệ An đi qua vùng
miền trung nghèo khổ ít tài nguyên, thuần nông nghiệp, hải sản không
thực sự phát triển mạnh, nắng hạn gay gắt, mưa lũ nhiều. Thương cho dân
miền trung nghèo khổ cần cù chịu khó và kiên cường. Đến Nghệ An ẩm thực
hơi khác, chúng tôi sử dụng tối đa chai nước mắm mang theo, trà, cà phê
cũng khác nhiều theo hướng trà ngày càng đậm hơn, cà phê càng nhạt hơn,
càng lúc càng khó uống. Lúc này mưa bão đã tạnh nhưng cái dư âm vẫn còn
rớt lại đây đó trên đường. Chúng tôi nghỉ lại ở Quỳnh Lưu Nghệ An lúc
mười giờ tối. Ở nơi này hầu như toàn vẹn cái không khí, cảnh vật của bao
cấp còn giữ lại. Phòng ngủ rộng, tuềnh toàng, nhiều cửa nẻo, cũ kỹ,
những phích nước Trung Quốc rỉ sét, bộ ấm tách trà ố vàng, chiếc quạt
máy kêu rè rè suốt đêm, mùi ẩm mốc từ gường nệm và chăn gối thiếu vắng
hơi người, cả đêm sợ ma tôi ngủ chập chờn và mong đến sáng. Chắc ở đây
cũng có nhiều khách sạn tốt hơn nhưng do bọn tôi tìm khách sạn rẻ tiền.
Qua Nghệ An chúng tôi đến Thanh Hóa vào giữa trưa, nghỉ lại ở quán ven
đường dưới bóng cây thật râm mát. Xe xảy ra sự cố khá lớn, dây nối bơm
xăng bị gãy, phải thay dây khác. Sau khá lâu loay hoay chúng tôi mừng rỡ
tiếp tục lên đường, lúc này Thạnh và Khoa vẫn chưa cần đến bản đồ du
lịch, bệnh đau bao tử của tôi tự dưng cũng biến mất, chuối ở Đại Lãnh
cũng đã hết, chỉ còn một ít bánh ngọt, kẹo cao su và vài hủ nước yến,
riêng nước khoáng Vikoda thì thoải mái. Quãng đường vừa rồi trời âm u,
mưa nhẹ nên ít bụi, đỡ nóng nực, đường bằng phẳng nên chiếc xe cũ kỹ
cũng đỡ “mệt nhọc”. Khoa càng chạy càng phấn khởi, thỉnh thoảng búng tay
tách tách, tôi và Thạnh cũng thuộc diện bơ đời không lo lắng gì cả, cùng
ăn, cùng ngủ, cùng đi và cùng chưa thấy khổ.
Chúng tôi đến Ninh Bình, núi đá vôi nhiều hình dạng,
cảnh vật hữu tình được mệnh danh là Hạ Long trên cạn. Kinh đô xưa của
non nước bốn nghìn năm, Đinh Bộ Lĩnh với thập nhị sứ quân, kinh đô Hoa
Lư bắt đầu của những triều đại: Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê sau này. Nơi mà
Lý Công Uẩn đã ban chiếu dời đô (1010) từ Hoa Lư về Thăng Long (Hà Nội
ngày nay), để rồi ngày nay con cháu kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long Hà
Nội (01->10/10/2010).
Món đặc sản ở Ninh Bình là dê núi, đến đây chai nước
mắm đã bị bỏ quên ở đâu đó, bánh tráng công nghiệp như một mảng nhựa
mỏng, cảm giác nhờn nhợn. Tuy nhiên mới nhai vài miếng, thật bất ngờ cái
vị mềm mại, ngọt của thịt dê hòa quyện với mùi thơm của rau, giòn mát
của trái sung, bùi bùi của lá sung chấm với một nước cay, sền sệt thật
là ngon. Ở Ninh Bình ăn thịt dê, chợt nghĩ về Thọ, một người bạn hiền
lành, chậm rãi vừa làm công chức vừa kinh doanh. Thọ với những năm tháng
phát nương làm rẫy, đắp bờ nuôi tôm, cá, nuôi dê và kinh doanh nhà hàng
thịt dê, … Những năm tháng hăm hở làm giàu rất sớm, trong khi đó đa số
các bạn còn lại vẫn còn loay hoay với công ăn việc làm và còn rất “thanh
bần”. Rồi cái ngày mở rộng thành phố Nha Trang về phía Sông Lô, bao
nhiêu kế hoạch và trang trại của Thọ bị sụp đỗ, cay đắng với thế thái
nhân tình, người quen người bạn là người trực tiến ra lệnh cưỡng chế
trang trại của mình với gần cả ngàn con cá Mú trong lồng bè và nào heo,
gà, dê, ngỗng trên núi,… Gác lại những kế hoạch làm giàu, Thọ trở về với
anh công chức hàng ngày, đều đều lên lương nhưng không thấy bạn lên
chức. Làm công chức nhà nước mà chân chính quá, không đa mưu túc trí,
không lươn lẹo nịnh bợ, không có ai đỡ đầu,…thì dậm chân một chỗ là cái
chắc, đành mong cho ngày tháng qua nhanh để về hưu (?!)
Đón đọc Kỳ 2