Trang Thơ và Truyện của Lê Ánh                |                 www.ninh-hoa.com

Bs LÊ ÁNH
Bút hiệu:
LÊ P Thọ


 
 
Quê làng Phú Thọ, Ḥn Khói, Ninh Ḥa,
Khánh Ḥa, Việt Nam
Cựu học sinh các trường Tiểu học Pháp Việt,Ninh Ḥa, Trung học Vơ Tánh
Nha Trang, Việt Nam
Tốt nghiệp Y Khoa Bác Sĩ tại Đại Học Y Khoa Sài G̣n

Làm việc tại Quân Y viện Pleiku, Bệnh viện
Nguyễn Tri Phương, Sài G̣n,

Làm việc tại Covenant Medical Center, Lubbock, Texas, Hoa Kỳ.

 

 

Hiện làm vườn tại Phoenix, Arizona, Hoa Kỳ.

 Tập ṭ viết lách dưới bút hiệu Lê Phú Thọ,
Anh Tư Ḥn Khói.

 

 

 

 

 


 

V I Ê M   T A I   N G O À I


Bs Lê Ánh
 

 

 

I-   TỔNG QUAN

 

Hè nóng là mùa của mồ hôi, của thú vui bơi lội, lặn ngụp trong làn nước trong xanh. Hè là mùa của bệnh viêm tai ngoài (externa otitis, c̣n gọi otitis externa, swimmers ear). Ai cũng có thể bị viêm tai ngoài, nhưng bệnh xảy ra nhiều nhất trong khoảng tuổi 5-19.


Tai có 3 ngăn: ngoài, giữa, và trong. Tai ngoài và tai giữa cách nhau bởi màng nhĩ (eardrum). Tai ngoài có ống tai (ear canal), ḷng lót bởi một lớp da mỏng.


Cấu trúc của ống tai ở tai ngoài khiến viêm tai ngoài hay xảy ra. Nó tối, ấm, dễ ẩm ướt, nên là môi trường tốt để vi trùng (bacteria) và nấm (fungus) sinh sôi nảy nở. Da lót ḷng ống tai lại rất mỏng và dễ tổn thương. Thêm vào đó, ống tai có một chỗ hơi cong, chỗ cong này khiến các mảnh ráy trong ḷng ống tai khó thoát ra ngoài. Lông trong ḷng ống tai - dày hơn khi ta có tuổi - cũng phần nào cản trở sự di chuyển của ráy trong ḷng ống tai.


May mắn, ống tai của tai ngoài ta cũng có cách để cố tự bảo vệ nó. Các ráy trong ống tai tạo một môi trường acid, ngăn sự sinh sôi nảy nở của vi trùng và nấm. Ngoài ra, ráy tai c̣n có tính kỵ nước (hydrophobic), nên cũng cản nước từ ngoài khỏi thấm vào làm ẩm tai ta. Như vậy, không có ráy tai, tai ta dễ nhiễm trùng. Song ngược lại, nhiều ráy tai quá, hoặc ráy dẻo đặc quá cũng khổ, dễ bít chặt ḷng ống tai, giữ nước và các chất bẩn, đưa đến nhiễm trùng. Đời là trung dung, không nên nghiêng quá về phía bên nào. Ống tai c̣n được bảo vệ bởi một cơ chế khác nữa: lớp trên cùng của da lót ḷng ống, có những chuyển động từ trong ra ngoài, giúp quét đẩy các chất bẩn trong ống tai ra ngoài.


Vi trùng và nấm sinh sống ở khắp mọi nơi, kể cả trong ống tai ngoài. Chúng nằm yên đấy khi các cơ chế đề kháng chống lại chúng của ta tốt, hữu hiệu. Song khi cơ chế đề kháng kém đi, hoặc khi lớp da phủ ống tai tổn thương, các vi trùng thừa cơ nổi lên làm loạn, nhất là hai con P. aeruginosa, S. aureus, và viêm tai ngoài xảy ra. Rất nhiều yếu tố có thể khiến sức đề kháng của ống tai ngoài ta kém đi, hoặc lớp da lót ḷng ống tai thương tổn:


- Tai ẩm ướt: do bơi lội, chảy mồ hôi, độ ẩm môi trường chung quanh cao
- Nước bẩn chứa nhiều vi trùng
- Trời nóng quá
- Ráy tai bị móc, lấy hết
- Ống tai tổn thương do ngoáy tai bằng cây quấn bông, móng tay, hoặc do mang dụng cụ trợ thính (hearing aids), đồ bịt tai (ear plugs)
- Bất cứ nguyên nhân nào khác có thể gây tổn thương cho ống tai
- Bệnh da kinh niên: eczema, psoriasis, seborrheic dermatitis, acne


Trong các yếu tố kể trên, quan trọng nhất vẫn là sự ẩm ướt và không c̣n ráy trong ống tai. Ráy tai có nhiệm vụ bảo vệ, bị lấy hết, ống tai sẽ dễ thấm nước và nhiễm trùng. Hóa ra, trong tai, có chút ráy, trông ngứa mắt song lại tốt, chúng ta chớ t́m cách móc, xeo, nậy, kéo hết chúng ra cho bằng được.


II- TRIỆU CHỨNG


Đa số các trường hợp viêm tai ngoài gây do vi trùng (bacteria). Các triệu chứng điển h́nh của viêm tai ngoài do vi trùng là đau tai, ngứa, chảy nước, tai nghe kém đi.


Đau có thể ít hay nhiều, đau hơn khi ta lay kéo tai. Ḷng ống tai hay sưng lên, hẹp lại, khiến tai thấy đầy đầy (fullness) và nghe kém đi. Trong ống tai có thể có nước màu trắng hoặc vàng, nếu nhiều, chảy cả ra ngoài. Phía trước tai đôi khi nổi hạch. Những trường hợp nặng, vành tai và da chung quanh tai sưng lên, nóng, đỏ và đau. Nóng sốt nếu có, nhẹ thôi, thường không quá 101.0
°F (38.3 °C).  

Nếu sốt cao hơn 101.0 °F, ta nên để ư kỹ, xem ngoài chuyện viêm tai ngoài, có vấn đề ǵ khác hệ trọng hơn hay không.


10% các trường hợp viêm tai ngoài gây do nấm (fungus). Nhiều nhất là nấm Aspergillus, rồi đến nấm Candida.Vi trùng và nấm sống chung ḥa b́nh trong ống tai, con nọ canh chừng con kia. Nhiều vị dùng thuốc nhỏ tai có chất trụ sinh để diệt vi trùng lâu quá, lượng vi trùng trong ống tai đâm ít đi, thoát ṿng kềm chế của các vi trùng, nấm nổi dậy gây loạn. Cũng có trường hợp nấm tự nó gây viêm tai ngoài, nhất là khi trời nóng và ẩm. Thường, viêm tai ngoài do nấm không gây triệu chứng ǵ cả, bác sĩ t́nh cờ khám thấy trong tai người bệnh có chất tiết trông giống như bông màu trắng, có khi màu đen, xám, xanh đen hay vàng, hoặc điểm những đốm đen. Nếu gây triệu chứng, nó khiến người bệnh thấy ngứa trong tai, đồng thời có cảm giác tai đầy đầy khó chịu. Ngứa có thể dữ lắm, khiến người bệnh móc găi, và làm tổn thương thêm ḷng ống tai. Tai cũng hay chảy nước và ù ù (tinnitus).


III- BIẾN CHỨNG


Ở đời lắm khi việc nhỏ lại gây biến cố lớn. Đa số những trường hợp viêm tai ngoài sẽ thuyên giảm với chữa trị, thỉnh thoảng có trường hợp bệnh nặng hơn, gây biến chứng khiến da chung quanh tai cũng bị nhiễm trùng lây (periauricular cellulitis), hoặc gây viêm tai ngoài ác tính (necrotizing or malignant otitis externa).


Viêm tai ngoài ác tính là một t́nh trạng nguy hiểm, đe dọa mạng sống, do nhiễm trùng từ tai lan ra xương "mastoid" đằng sau tai, xương "temporal" phía trước, hoặc xương sàn sọ bên trong. Viêm tai ngoài ác tính hay do vi trùng P. aeruginosa, thường tấn công những vị cao tuổi mang bệnh tiểu đường, và người có sức đề kháng cơ thể suy giảm v́ bệnh (như bệnh AIDS) hoặc thuốc dùng (thuốc Prednisone, thuốc chống ung thư, …).


Viêm tai ngoài ác tính khó chữa, gây tử vong cao. Ta nên nghi ngờ t́nh trạng này khi đă dùng thuốc nhỏ tai đúng để chữa, tai vẫn đau dữ quá và tiếp tục chảy mủ, lúc khám th́ lại không thấy trong tai có ǵ nặng cho lắm, hoặc khám thấy có mô hạt (granulation tissue) xuất hiện trong ḷng ống tai. Phim CAT scan hay phim MRI có thể giúp ta xác định người bệnh đúng bị viêm tai ngoài ác tính. Nghi người bệnh bị viêm tai ngoài ác tính, bác sĩ chính (primary care physician) sẽ gửi người bệnh đến bác sĩ chuyên khoa Tai-Mũi-Họng (otolaryngologist) để xin ư kiến.

 

IV- ĐIỀU TRỊ

 

Sự điều trị được thực hiện tuỳ theo nguyên nhân gây ra bệnh:

 

 1. Bệnh do vi trùng:

Các thuốc nhỏ tai chứa chất trụ sinh hoặc chất acid rất hữu hiệu trong việc chữa trị.

Bạn nằm nghiêng một bên, tai đau ở phía trên, nhỏ thuốc thẳng vào ống tai, thường là 3-4 giọt ngày 2 đến 4 lần tùy loại thuốc. Nên dùng thuốc thêm khoảng 3 ngày sau khi triệu chứng đă thuyên giảm. Nói chung, chúng ta dùng thuốc 7 ngày, tuy nhiên, những trường hợp nặng, chúng ta cần dùng thuốc đến 10-14 ngày.

 

Nhỏ thuốc xong, bạn nằm nghiêng như vậy 20 phút cho thuốc ngấm, c̣n nếu không thể nằm lâu đủ chờ thuốc ngấm, bạn dùng một miếng bông nhỏ nhét vào tai, để 20 phút, giữ thuốc trong ống tai khỏi chảy ra ngoài. Lay đẩy chỗ sụn ngay phía ngoài ống tai cũng giúp thuốc tráng đều và dễ ngấm vào ống tai hơn.

 

Trường hợp ống tai nhiều ráy và mủ quá, ống tai cần được bác sĩ làm sạch trước khi nhỏ thuốc. Cũng có trường hợp ống tai nhiễm trùng sưng nhiều và hẹp lại, thuốc không vô được, ta đặt một dụng cụ dẫn thuốc (wick) vào ống tai, rồi qua đó, nhỏ thuốc mỗi 3-4 tiếng lúc thức. Cứ 2-5 ngày, tai được khám lại, cho đến khi ống tai không c̣n thấy sưng nữa, ta sẽ lấy dụng cụ dẫn thuốc đặt vào tai ra.

 

Đa số những trường hợp viêm tai ngoài nhẹ do vi trùng, dùng thuốc nhỏ tai chứa chất acid (Vosol, Vosol HC, Otic Demeboro) hoặc chất trụ sinh (các thuốc Cortisporin, Coly-mycin S, Otobiotic, Floxin Otic, Cipro HC Otic, Garamycin, Tobrex,...) là đủ, không cần đến trụ sinh uống. (Viêm tai giữa, ngược lại, chữa bằng trụ sinh uống, không dùng thuốc nhỏ tai). Nhưng nếu dùng thuốc nhỏ tai, viêm tai ngoài không thấy thuyên giảm, hoặc khi tai giữa cùng bị viêm (otitis media), hoặc nhiễm trùng ngay lúc đầu đă có vẻ lan rộng (sốt trên 101.0 °F - tức 38.3 °C -, đau dữ quá, nổi hạch quanh tai), thuốc nhỏ tai không đủ, phải dùng thêm thuốc trụ sinh uống mới xong. Ta nên nghi ngờ viêm tai giữa khi người bệnh mới bị cảm, cúm thời gian gần đây, hoặc khi viêm tai xảy ra cho trẻ dưới 2 tuổi, v́ trẻ dưới 2 tuổi hay bị viêm tai giữa, hiếm khi viêm tai ngoài. Cũng nên nghĩ đến việc dùng trụ sinh uống sớm cho những vị có sức đề kháng cơ thể suy giảm, chẳng hạn v́ mang bệnh tiểu đường, đang dùng thuốc steroids, hoặc mang bệnh viêm da kinh niên (underlying chronic dermatitis. Những trường hợp nặng, trụ sinh uống cũng không ăn thua, ta dùng trụ sinh chích hoặc truyền tĩnh mạch.

 

Bệnh nặng, phải cầu cứu đến trụ sinh uống hay chích, ta nên sử dụng loại có thể trị được hai con vi trùng P. aeruginosa và S. aureus như Cipro, Ofloxacin (Ampicillin, Amoxil - những trụ sinh hay bị lạm dụng, nhiều vi trùng đă kháng - không hữu hiệu).

Nếu cần, chúng ta dùng các thuốc chống viêm không có chất steroid, như ibuprofen, để giúp giảm đau.

 

Thường, với chữa trị, chúng ta sẽ thấy triệu chứng bắt đầu thuyên giảm trong ṿng 36-48 tiếng, và khoảng 6 ngày sau, tai không c̣n đau, chảy nước nữa. Nếu triệu chứng không thuyên giảm trong ṿng 3 ngày, chúng ta sẽ cấy trùng mủ trong tai và nghĩ đến chuyện nhờ bác sĩ chuyên khoa Tai Mũi Họng giúp.

 

Trong lúc chữa trị, chúng ta tránh để nước vào tai, ngưng bơi trong ṿng 7-10 ngày (các lực sĩ đang bận thi tài có thể bơi lại sớm hơn, sau hai ba ngày trị liệu, đă hết đau). Khi tắm, nên nhét vào ống tai một miếng bông có tẩm petroleum jelly để ngừa nước vào tai. Cũng nên tránh dùng dụng cụ trợ thính hay điện thoại gắn vào tai cho đến khi triệu chứng thuyên giảm. 

 

2. Bệnh do nấm:

Bệnh nấm trong ống tai có thể tự nó xảy ra, hoặc xảy ra sau khi ta dùng thuốc nhỏ trụ sinh khiến vi trùng chết, nấm nổi dậy hoành hành. (Đời là sự cân bằng, gh́m giữ lẫn nhau, v́ thế nhiều trường hợp chúng ta dùng trụ sinh để chữa bệnh, các vi trùng bạn cũng bị diệt luôn, không c̣n ai canh chừng nấm. Trụ sinh không nên sử dụng bừa băi.) 

 

Làm sạch ống tai bằng cách hút ra hết những chất tiết dơ bẩn là căn bản của sự chữa trị. Sau đó, dùng thuốc nhỏ tai chứa chất trị nấm như Lotrimin (clotrimazole 1% solution), 3-4 giọt ngày 2 lần trong 7 ngày, thường giúp ta giải quyết vấn đề.

 

Những trường hợp nấm trong tai khó, chúng ta nhờ đến sự giúp đỡ của bác sĩ chuyên khoa Tai Mũi Họng.

 

 V- PH̉NG NGỪA

 

Viêm tai ngoài, xảy ra một lần đă khổ, nếu cứ tái phát, thực phiền vô cùng, có khi c̣n nguy hiểm. Việc pḥng ngừa để tránh tái phát rất cần thiết cho những người có ráy tai dẻo đặc, có ống tai nhỏ hẹp, nhất là ở những vị có sức đề kháng cơ thể suy giảm.Pḥng ngừa cũng quan trọng cho người chảy mồ hôi nhiều, hoặc lấy bơi lội làm thú vui, lẽ sống.

 

Khi bơi, bạn dùng dụng cụ nhét vào tai để bảo vệ tai (ear plugs). Sau khi tắm hoặc bơi, bạn rũ, lắc tai cho khô và dùng máy giúp khô tóc (hair dryer) thổi nhẹ để làm nước vào tai, nếu có, mau khô (dùng độ thổi nhẹ nhất của máy, để xa tai chừng 12 inches). Các thuốc nhỏ vào tai chứa chất rượu (alcohol) và acetic acid, như Star-Otic, giúp ống tai mau khô.

 

Bạn tránh dùng que đầu quấn bông g̣n (Q-tip) cố ngoáy lau ống tai; làm vậy dễ gây tổn thương cho ḷng ống tai, đồng thời đẩy sâu vào trong các mảnh ráy đang di chuyển dần từ trong ra ngoài, theo lộ tŕnh b́nh thường của chúng để được tống xuất khỏi tai. Bạn cũng đừng dùng móng tay móc găi, “đă” thực đấy, song có thể làm trầy ḷng ống tai, đưa đến hậu quả nhiễm trùng.

 

Thỉnh thoảng, nếu cần (ráy tai đóng chặt khiến bạn không nghe biết việc đời), bác sĩ súc rửa ống tai và lấy ráy ra giúp bạn. Trước lúc súc rửa, nhắm thấy ráy có vẻ khô đặc, khó lấy, ta dùng thuốc tan ráy (ceruminolytic agent) như Cerumenex, hoặc nước baking soda 4% cũng được, nhỏ vào tai, giúp ráy mềm đi dễ lấy.

 

Vui hưởng hè vàng, chúng ta cẩn thận đừng để nước đọng trong tai, đưa đến viêm tai ngoài. Lỡ nó có đến, ta chữa nó đúng cách, vừa mau bớt đau, vừa tránh các biến chứng nguy hiểm.

 

 

 

 

  

 

 

Bác sĩ LÊ ÁNH
06/2021

 

 

 

 

 

 

 

 

Trang Thơ và Truyện của Lê Ánh              |                 www.ninh-hoa.com