

Ung
thư phổi rất đáng sợ, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các
bệnh ung thư trên toàn thế giới, cho cả đàn ông lẫn phụ nữ. Căn bệnh
gây khoảng 1,2 triệu cái chết mỗi năm. Trong ṿng 25 năm qua, số người
chết v́ ung thư phổi mỗi năm mỗi tăng.
Hút thuốc là yếu tố nguy hại hàng đầu gây ung thư phổi. Người hút
thuốc lá có nguy cơ bị ung thư phổi 10 đến 30 lần nhiều hơn người
không hút.
Tuy các yếu tố khác, chẳng hạn như ngửi khói thuốc bay ra từ miệng
người hút thuốc lá (second-hand tobacco smoke), tiếp xúc với các chất
asbestos, radon, arsenic, radiation, polycyclic hydrocarbons, nickel,
cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư phổi, nhưng cho đến nay, hút
thuốc lá vẫn nguy hiểm nhất, nguyên nhân của 90% các trường hợp ung
thư phổi.
Theo thông kê, vào năm 2005, tại Mỹ, số người mới bị là gần 173 ngàn
người, trong đó có 79 ngàn phụ nữ. Số người chết v́ bệnh ung thư phổi
là 163 ngàn, trong đó có khoảng 79 ngàn phụ nữ. Để hiểu rơ tầm quan
trọng của tử vong v́ ung thư phổi, ta hăy so sánh với ung thư vú. Số
người đàn bà bị ung thư vú loại xâm lấn là trên 180,000 người nhưng số
tử vong v́ ung thư vú chỉ có 40 ngàn người.
Trong năm 2007, có 215.000 trường hợp ung thư phổi mới, và 162.000
người mất mạng v́ nó. Số trường hợp ung thư phổi ngày càng tăng, nhất
là ở phụ nữ, v́ dân số ngày càng đông, và chúng ta cũng sống lâu hơn
trước. Phụ nữ bị ung thư phổi ngày càng tăng v́ quư bà, quư cô hiện
nay hút thuốc lá không kém.
Số người chết v́ ung thư phổi mỗi năm cao hơn tổng số người chết v́
các ung thư ruột, ung thư vú và ung thư nhiếp hộ tuyến. Có thể nói là
khi đă bị ung thư phổi, bệnh nhân sẽ có cơ hội tử vong cao nhất so với
các ung thư khác. Đây là lư do khiến các cơ quan y tế quốc gia cũng
như Hội Ung Thư Việt Mỹ phải đặc biệt quan tâm đến vấn nạn ung thư
phổi.
1-
Các thể bệnh
Bướu ung thư phổi cấu tạo bởi các tế bào ung thư bất thường, thường
thuộc một trong bốn thể loại sau:
- Squamous cell carcinoma (20-30% trường hợp ung thư phổi)
- Adenocarcinoma (30-40%)
- Large cell carcinoma (10%)
- Small cell or "oat cell" carcinoma (20%)
Ba thể ung thư đầu có tính nết, lối tiến triển khá giống nhau, và cách
chữa chúng cũng tương tự, nên chúng thường được gọi chung là
“non-small cell lung cancer”; thể ung thư thứ tư khác hơn, lớn nhanh,
lan mạnh, cách chữa cũng khác.
Để dễ hiểu, ta có thể chia ung thư phổi làm hai loại chính là small
cell hay oat cell tức loại ung thư phổi tế bào nhỏ, và non-small cell
tức loại ung thư có tế bào không nhỏ. Cả hai loại ung thư phổi này đều
nguy hiểm, nhưng cách lây lan, chữa trị và cơ hội sống c̣n khác nhau.
V́ ung thư phổi thuộc loại tế bào nhỏ rất hiếm so với loại tế bào
không nhỏ, nên ta chỉ chú trọng đến loại tế bào không nhỏ (non-small
cell) trong bài viết này. Một điều cần được nhấn mạnh là cả hai loại
đều do thuốc lá gây ra.
2-Nguyên nhân chính: Thuốc lá
Thuốc lá gây ra 90% những trường hợp ung thư phổi ở người nam và 78% ở
người nữ. Cơ hội trung b́nh bị ung thư phổi cho những người hút thuốc
lá là 1 trong 10 người sẽ bị ung thư phổi. Những nghiên cứu về dịch
tính cho thấy là ở những nơi người dân hút thuốc lá nhiều, số người bị
ung thư phổi sẽ gia tăng.
Thí dụ ở tiểu bang Kentucky, 33% nam giới hút thuốc lá và có 103 trên
100 ngàn người nam bị ung thư phổi mỗi năm. Ở Utah chỉ có 16% nam giới
hút thuốc và chỉ có 45.8 trên 100 ngàn người nam bị ung thư phổi.
Về phía phụ nữ, ở Nevada có 29.8% phụ nữ hút thuốc và tỉ lệ bị ung thư
phổi là 45.8 trên 100 ngàn người. Ở Utah chỉ có 11.5% phụ nữ hút thuốc
và tỉ lệ ung thư phổi chỉ có 13.9 trên 100 ngàn người. Như vậy, nếu
chúng ta tránh thuốc lá, tỉ lệ bị ung thư phổi sẽ giảm đi rất nhiều.
Thuốc lào cũng có những độc tố của thuốc lá, rất dễ ghiền, và đưa đến
việc ghiền thuốc lá. Do đó, Hội Ung Thư Hoa Kỳ cũng khuyên chúng ta
không nên hút thuốc lào.
Những nguyên nhân khác có nguy cơ cao gây ra ung thư phổi gồm có chất
asbestos và radon. Chất asbestos là chất dùng để cách điện và cách
nhiệt và có nhiều trong những căn nhà xây thời xưa, hay tại các xưởng
làm tàu. Chất này đặc biệt nguy hiểm cho những người hút thuốc lá v́
cơ hội bị ung thư phổi sẽ tăng lên gấp bội.
Do đó, những người đă có sự tiếp cận với asbestos lại càng phải tránh
thuốc lá. Chất radon có trong những căn nhà ở một số vùng có thể có
quặng mỏ radium. Cơ hội gây ra ung thư phổi do radium cao hơn người
thường, nhưng rất ít so với thuốc lá. Tuy nhiên, người hút thuốc lá sẽ
rất nhạy cảm với ảnh hưởng của radon.
Một số người có yếu tố di truyền ở nhiễm sắc thể số 6 sẽ rất dễ bị ung
thư phổi nếu họ hút thuốc. Những người đă từng được chữa trị bằng xạ
trị vào vùng lồng ngực cho những ung thư như ung thư vú hay ung thư
hạch loại Hodgkin cũng có cơ hội bị ung thư phổi cao hơn, nhất là nếu
họ lại hút thuốc lá. Những nguyên nhân khác như hóa chất nơi làm việc,
ô nhiễm không khí, v.v. cũng gia tăng cơ hội ung thư phổi nhưng rất
thấp so với khói thuốc lá.
Tóm lại, nguyên nhân chính và có thể tránh được bệnh ung thư phổi là
thuốc lá. Do đó, cai thuốc lá là điều quan trọng nhất trong việc chống
lại ung thư phổi.
3-Triệu chứng ung thư phổi
Thông thường ung thư phổi không có triệu chứng ǵ cả, nhất là ở thời
kỳ đầu tiên. Khi ung thư đă trở nên nặng hơn, bệnh nhân có thể có
những triệu chứng như ho, khó thở, tức hay đau lồng ngực, ho ra máu,
hay xuống cân. Nếu ung thư đă lây lan ra xương, ra gan, ra năo, v.v,
bệnh nhân có thể thấy đau nhức xương, đau bụng, đau lưng, nhức đầu,
chóng mặt, lừ đừ, lẫn lộn, bị kinh phong, v.v...
Khoảng 10-20% người bệnh ung thư phổi có thêm hội chứng gọi là
“paraneoplastic syndrome”: ung thư tiết ra một số chất, vào máu, gây
triệu chứng, như đau sưng khớp; ngón tay dày lên, rộng ra giống h́nh
cái chày (digital clubbing); triệu chứng thần kinh bất thường; vú to
ra, chảy chất dịch giống sữa; chất calcium tăng cao trong máu; v.v..
Đây có thể xem là những triệu chứng, dấu chứng gián tiếp của ung thư
phổi. Loại ung thư thứ tư (small cell lung cancer) hay gây những triệu
chứng gián tiếp này.
4-Cách chẩn bệnh ung thư phổi
Chụp h́nh phổi thông thường bằng X-quang (chest X-Ray), có thể nh́n
thấy h́nh phổi hai chiều.
Chụp CT Scan phổi: sử dụng vi tính và X-quang để thấy h́nh phổi ba
chiều. Thấy nhiều chi tiết và chính xác hơn chụp phổi thường (X-Ray).
Chụp PET Scan: sử dụng chất đường phóng xạ để đo lường sự hoạt động
của các tế bào trong cơ thể. Tế bào ung thư hoạt động mạnh nhất, hấp
thụ chất đường phóng xạ nhiều nhất, và sẽ thấy nổi lên nhiều nhất khi
chụp. PET scan phải được lồng vào cùng với CT scan th́ mới chính xác
được (intergrated PET-CT Scan).
Soi cuống phổi (bronchoscopy) là phương pháp nội soi bằng một ống đi
vào cuống phổi để xem có bướu trong cuống phổi hay không, có bị nghẹt
cuống phổi hay không, và bác sĩ có thể làm sinh thiết trong khi soi
cuống phổi.
Sinh thiết qua lồng ngực: nhiều khi, làm sinh thiết qua cuống phổi
không được, bác sĩ phải làm sinh thiết qua lồng ngực dùng kim nhỏ theo
hướng dẫn của CT scan (CT-guided needle biopsy) để đi vào đúng chỗ bị
bướu. Một số tế bào từ bướu sẽ được rút ra và nh́n dưới kính hiển vi
để định bệnh.
- Bác sĩ chuyên khoa phổi, qua ống soi phổi, xem và cắt lấy thịt trực
tiếp từ khối bướu cùng những vùng khả nghi.
- Bác sĩ chuyên khoa quang tuyến (radiologist), dùng CT scan để biết
chắc khối bướu nằm ở đâu, đâm kim qua thành ngực vào đến khối bướu cắt
chút thịt.
- Bác sĩ giải phẫu ngực (thoracic surgeon) đưa một ống soi vào vách
ngăn hai lồng ngực, rồi qua ống soi, cắt thịt từ khối bướu.
5- Chữa trị ung thư phổi
Cách chữa gồm có ba cách chính: giải phẫu, xạ trị và thuốc.
►
Giải phẫu (Surgery)
- Mổ mở ngực (thoracotomy): Lồng ngực sẽ được mở rộng ra bên cạnh
sườn, lá phổi sẽ được làm xẹp tạm thời, và thùy phổi bị bệnh sẽ được
cắt bỏ. Cùng lúc, những hạch phổi và hạch trung thất cũng được lấy ra
để xem có bị lây lan hay không.
* Mổ hạn chế (Wedge resection) lấy một phần nhỏ của phổi có bướu độc
và quanh vùng tế bào lành;
* Cắt đoạn bướu độc (Segmental resection), lấy vùng tế bào ung thư
rộng hơn;
* Cắt thuỳ bướu độc (Lobectomy);
* Cắt toàn lá phổi bị ung thư (Pneumonectomy).
- Mổ nội soi lồng ngực dưới sự hướng dẫn của video (video-assisted
thoracosopy): lồng ngực cạnh sườn sẽ được mổ nhỏ để luồn ống soi video
vào. Cách mổ này có thể mổ được tương tự như cách mổ lớn trong nhiều
trường hợp. V́ vết mổ nhỏ, nên thời gian lành bệnh nhanh hơn.
►
Xạ trị (Radiation therapy/Radiotherapy)
Là cách dùng tia quang tuyến cực mạnh để đốt cháy tế bào ung thư. Tia
sử dụng có thể là tia photon, electron, neutron hay proton. Những máy
móc hiện đại sử dụng vi tính có thể giúp bác sĩ chuyên môn điều khiển
tia xạ đến nơi bị bệnh một cách chính xác và giảm thiểu ảnh hưởng của
tia xạ đến những mô b́nh thường chung quanh và giảm thiểu những phản
ứng phụ.
Những thuốc thường dùng: Cisplatin,
Taxotere,
Carboplatinum,
Taxol,
Etoposide.
Phản ứng phụ có thể xảy ra, nhưng thường chỉ nhẹ và sẽ khỏi sau khi
trị bệnh xong. Ngoài ra, có thuốc để chữa hay pḥng ngừa một số những
phản ứng phụ. Các bác sĩ chuyên trị ung thư sẽ tùy theo trường hợp cho
những thứ thuốc để chống lại phản ứng phụ. Những phản ứng phụ thông
thường nhất tùy theo loại thuốc có thể xảy ra, gồm có:
- Nôn mửa, ăn không ngon, bón, tiêu chảy
- Rụng tóc, tróc móng tay, móng chân
- Giảm năng lực
- Tay chân tê, đau nhức bắp thịt, khớp xương
- Thiếu bạch huyết cầu: dễ nhiễm trùng
- Thiếu hồng huyết cầu: mệt mỏi, tim đập nhanh, v.v..
- Thiếu tiểu cầu: dễ bị chảy máu, vết đỏ hay bầm trên da
6- Mục tiêu trị liệu (Targeted Therapy)
Hiện thời có hai thứ thuốc chữa theo mục tiêu là Iressa (Genfitinib)
và Tarceva (Erlotinib) đă được cơ quan FDA chấp nhận dùng để chữa ung
thư phổi loại non-small cell sau khi đă dùng ít ra một thứ thuốc khác.
Iressa cũng được chấp nhận để dùng trước tiên trong việc chữa bệnh
này. Đây là những thuốc uống và có ít phản ứng phụ hơn hóa chất trị
liệu thông thường.
Hai thuốc này tác động vào mục tiêu là chất tyrosine kinase của yếu tố
di truyền HER-1/EGFR. Tyrosine kinase gia tăng sự phát triển của mô
biểu b́ và gia tăng sự tăng trưởng của tế bào ung thư phổi vốn phát
xuất từ mô biểu b́. Qua sự ngăn chặn hoạt động của tyrosine kinase
trên sự phát triển biểu b́, Iressa và Tarceva có thể ngăn chặn sự phát
triển của tế bào ung thư.
Phản ứng phụ thông thường nhất của hai thuốc này là tiêu chảy và bị
các phản ứng về da như mụn, ngứa, đỏ, lột da, hay đóng vảy. Những
triệu chứng này thường rất nhẹ nhưng cũng có thể rất nặng và liều
thuốc phải giảm đi hay ngưng hẳn. Một điều đáng chú ư là những bệnh
nhân nào bị phản ứng về da, sẽ có cơ hội cao để thuốc có hiệu nghiệm.
7- Chữa trị tùy theo thời kỳ (stage) của bệnh
Thời kỳ (stage) I A (ung thư dưới 3 cm, chưa vào hạch): giải phẫu cắt
trọn thùy phổi bị bệnh. Cơ hội chữa lành sau 5 năm là 60-80%. Nếu
không mổ được v́ bất cứ lư do ǵ, bệnh có thể chữa bằng xạ trị. Không
cần hóa chất trị liệu cho thời kỳ này.
Thời kỳ (stage) IB (ung thư 3-5cm, chưa vào hạch): giải phẫu cắt trọn
thùy phổi bị bệnh. Cơ hội chữa lành sau 5 năm là 40-50%. Nếu không mổ
được, có thể chữa bằng xạ trị. Đối với bệnh nhân ở thời kỳ này, hóa
chất trị liệu có thể gia tăng cơ hội sống c̣n toàn phần lên khoảng 15%
cao hơn không có hóa chất.
Thời kỳ (stage) II (ung thư lớn T3, hay đă vào hạch phổi, nhưng chưa
vào hạch trung thất): Giống như IB. Cơ hội chữa lành 25-30% sau 5 năm.
Thời kỳ (stage) IIIA (ung thư đă vào hạch trung thất cùng bên): Sau
hóa chất và xạ trị, mổ cắt trọn thùy phổi bị bệnh nếu được. Hóa chất
trị liệu tiền giải phẫu và xạ trị có thể gia tăng cơ hội mổ được cho
60% bệnh nhân, và cơ hội sống được 3 năm cho những người này khoảng
25%.
Thời kỳ (stage) IIIB (đă vào hạch trung thất bên kia): Cơ hội sống c̣n
5 năm 5-10%. Chữa bằng hóa chất trị liệu và xạ trị để giúp đỡ những
triệu chứng bệnh và chỉ giúp gia tăng cơ hội sống c̣n 5-10%. Chữa bằng
xạ trị cùng lúc với hóa chất, rồi đến hóa chất. Phương pháp giải phẫu
không có hiệu quả.
Thời kỳ (stage) IV (đă di căn): cơ hội sống c̣n 5 năm dưới 5%. Chữa
bằng hóa chất trị liệu và xạ trị để giúp bớt những triệu chứng bệnh,
chỉ giúp gia tăng cơ hôi sống c̣n rất ít. Giải phẫu không có hiệu quả.
Trị liệu bằng thuốc Iressa hay Tarceva có thể giúp sồng lâu hơn nếu
chịu thuốc.
8- Phát hiện sớm ung thư phổi
Các nghiên cứu cho thấy chụp h́nh phổi thông thường không phải là cách
tốt nhất để khám phá ra ung thư phổi ở thời kỳ sớm nhất. Các nghiên
cứu đang đặt trọng tâm xem xét các phương pháp tốt nhất để truy tầm
sớm ung thư phổi, thí dụ như Spiral CT Scan. CT scan có thể khám phá
được ung thư phổi ở thời kỳ rất sớm.
Tuy nhiên, chúng ta chưa biết là truy tầm ung thư phổi ở thời kỳ sớm
có gia tăng cơ hội sống c̣n hay không. V́ lư do này, hiện thời các cơ
quan y tế chưa có những lời khuyên về truy tầm sớm ung thư phổi cho
các chương tŕnh y tế cộng đồng. Tuy nhiên, nếu quư vị nào hút thuốc
lá nhiều tức là có cơ hội bị ung thư phổi cao, và muốn truy tầm sớm
(nhất là nếu quư vị có những triệu chứng như kể trên), xin nhờ bác sĩ
cho chụp CT scan để định bệnh v́ chụp h́nh phổi thường sẽ có cơ hội
thấy ung thư rất thấp.
9- Ngừa bệnh hơn chữa bệnh và Truy tầm
Chưa có thuốc ǵ hay thức ăn nào có thể ngừa ung thư phổi. Không nên
lạm dụng những chất vitamin tức sinh tố. Thí dụ, chất Beta-carotene là
tiền sinh tố A ở lượng cao có thể gia tăng cơ hội bị ung thư phổi.
Cách tốt nhất để giữ cơ thể khỏe mạnh là ăn uống điều độ và ăn đủ loại
thực phẩm v́ mỗi loại thức ăn có những yếu tố dinh dưỡng khác nhau cần
thiết cho cơ thể.
Chúng ta đă biết, hút thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư
phổi, thủ phạm của 90% các trường hợp. Ngay cả người phải ngửi khói
thuốc lá do người khác hút cũng dễ bị ung thư.
Do thế, đến nay, bỏ hút thuốc, tránh xa nơi có khói thuốc lá, vẫn là
cách hữu hiệu nhất để ngừa ung thư phổi. Nhiều vị hút thuốc lâu năm lư
luận, có bỏ cũng đă trễ rồi, không giúp ǵ đâu, thôi đành chờ kiếp sau
tu tỉnh từ đầu, nhưng các khảo cứu đều cho thấy, người bỏ thuốc lá có
nguy cơ bị ung thư phổi ít hơn nhiều so với người tiếp tục hút. Theo
kết quả của vài khảo cứu, bỏ thuốc hơn 15 năm, triển vọng ung thư phổi
giảm 80-90% so với người c̣n hút.
Về truy t́m (screening), việc truy t́m ung thư phổi định kỳ ở những
người hút thuốc lá không có triệu chứng hiện vẫn c̣n là vấn đề nhức
đầu, nhiều bàn căi. Liệu việc này có đáng đồng tiền bát gạo không,
khám phá được ung thư phổi sớm có làm giảm tử vong, thay đổi dự hậu
(prognosis), giống trường hợp truy t́m ung thư cổ tử cung bằng phương
pháp Pap’s smear, truy t́m ung thư vú bằng phim vú mammogram, truy t́m
ung thư ruột già bằng phương pháp soi ruột già colonoscopy?
Rất nhiều khảo cứu đă được thực hiện để t́m cách trả lời câu hỏi này,
nhưng cho đến nay, các kết quả đều không cho thấy việc truy t́m ung
thư phổi định kỳ ở những người hút thuốc lá làm thay đổi tỉ lệ tử
vong. V́ thế, khuynh hướng hiện tại là, trừ trong các trung tâm nghiên
cứu, c̣n chúng ta không chụp phim truy t́m định kỳ ở những người hút
thuốc lá không có triệu chứng, khuyên họ bỏ thuốc lá là phương cách
hay hơn nhiều. (Với những người không hút thuốc chúng ta, nguy cơ ung
thư rất ít, việc truy t́m lại càng không cần.)
Một số bác sĩ vẫn cho bệnh nhân hút thuốc của ḿnh chụp phim ngực (từ
nay, cho đúng, chúng ta đừng gọi “phim phổi” nữa) hàng năm. Việc này
có thể đưa đến nhiều tốn kém và nguy hiểm (thấy ǵ hơi lạ, phải làm
thêm phim CT Scan, MRI, nhờ bác sĩ chuyên khoa phổi soi, nhờ bác sĩ
giải phẫu mổ phổi ra xem, mà rất nhiều khi chẳng có ǵ cả), và một
phim ngực b́nh thường không chắc đă cho chúng ta niềm an tâm, v́ một
ung thư nhỏ c̣n dấu ḿnh trong một ống phổi, phim ngực không thể cho
thấy được; lại nữa, có loại ung thư mọc nhanh, vài tháng đă xuất hiện
rồi, phim ngực mới chụp gần đây dù b́nh thường có ăn nhằm ǵ. Vả, việc
này biết đâu có thể ngầm khuyến khích người bệnh tiếp tục hút thuốc
lá, “Bác sĩ thấy chưa, số tôi không bị ung thư phổi là không bị, phim
ngực tôi năm nào bác sĩ cũng cho chụp, có ǵ đâu, bác sĩ đừng nói đến
chuyện bắt tôi bỏ thuốc nữa”.
Ngưng hút thuốc lá có
thể làm giảm nguy cơ ung thư phổi rất nhiều. Ngưng càng sớm càng tốt.
Không hút thuốc lá là cách tốt nhất để ngừa ung thư phổi. Không nên
hút thuốc lá. Xin đừng thử!