Một bầy ong thường
thường có một ong chúa, nhiều ngàn ong thợ và trên 1000 ong mậtđực. Đôi
khi có hai ong chúa, một mẹ một con. Ong thợ rất bận rộn và chỉ thọ được
khoảng 28 ngày.
II - CÁC LOẠI ONG TRONG TỔ
1) ONG CHÚA
Ong chúa là con ong
cái duy nhất được phát triển giới tính trong một tổ ong. Trong tổ ong nó
là con lớn nhất.
Các con ong thợ sẽ
chọn một con ấu trùng 2 ngày tuổi để tôn lên làm ong chúa. Sau11 ngày nó
sẽ giao phối với khoảng 18 con ong mật đực. Trong khi giao phối, nó sẽ
nhận được hàng triệu tinh bào. Chính những tinh bào này sẽ giúp nó kéo
dài sự sống gần 2 năm.
Ong chúa bắt đầu đẻ
trứng khoảng 10 ngày sau khi giao phối. Một con ong chúa trong mùa sinh
sản có thể đẻ 3. 000 trứng một ngày.
Ong Chúa lớn hơn và
sống lâu hơn các ong khác. Thực ra Ong Chúa cũng chỉ là ong b́nh thường
nhưng được nuôi dưỡng liên tục bằng một thực phẩm đặc biệt gọi là mật
ong chúa hay sữa ong chúa (Royal Jelly) trong khi đó ong thợ chỉ được
dùng sữa này có ba ngày. Ong Chúa sống lâu hơn ong thợ tới 60 lần. Mỗi
năm ong chúa đẻ tới bốn, năm trăm ngàn trứng vào khoảng giữa tháng Chạp,
khi thời tiết bắt đầu lạnh.
Trong tổ ong, mỗi
cá nhân tự quyết định công việc phải làm, và làm việc rất quy củ, nhịp
nhàng. Chúng liên lạc với nhau bằng nhiều h́nh thức, đặc biệt nhất là
bằng ngôn ngữ vũ điệu trong đường bay theo h́nh số 8. Ong cần cù làm
việc và cũng sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ tổ ấm khi có xâm lăng, nhất là
từ những gấu rừng ham ăn, ưa thích mật ong.
Khi đậu trên hoa,
Ong lấy mật hoa, phấn hoa, nước. Thực phẩm chính của ong là phấn hoa và
mật hoa. Mật cung cấp cho ong carbohydrat và đạm chất. Phấn hoa được ong
tiêu thụ ngay hoặc để dành dùngdần, đôi khi cả tháng.
2) ONG THỢ
Ong thợ là những
con ong cái nhỏ nhất trong đàn không phát triển giới tính. Một bầy ong
có thể có 50. 000 đến 60. 000 con ong thợ.
Cuộc đời của một con ong thợ có sự khác nhau tùy theo thời gian trong
năm. Trung b́nh cuộc sống của một con ong thợ kéo dài khoảng 28
đến 35 ngày. Tuy
nhiên, những con ong thợ ra đời vào tháng 10 và tháng 11 có thể sống qua
hết mùa Đông.
Ong thợ có nhiệm vụ
nuôi con ong chúa và ấu trùng, bảo vệ cửa vào tổ ong và giữ cho tổ ong
được mát mẻ bằng cách vỗ cánh. Ong thợ c̣n có nhiệm vụ thu lượm mật hoa
để tạo ra mật. Hơn nữa, ong thợ c̣n sản sinh ra chất sáp cho tổ ong. Tổ
ong được cấu tạo từ những lỗ có h́nh sáu cạnh, thành của nó chỉ dày
khoảng 2/1000 inch, nhưng có sức chịu đựng lên đến 25 lần so với trọng
lượng của nó.
Ong mật vỗ cánh 11. 400 lần một phút, do đó nó tạo nên một âm thanh vo
ve đặc biệt.
3) ONG LÀM MẬT thường gọi là
ONGMẬTĐỰC
Ong mật đực là
những con ong không có ṿi. Ong đực không có nhiệm vụ đi thu nhặt lương
thực hay phấn hoa. Nhiệm vụ duy nhất của chúng là giao phối với ong chúa.
Nếu tổ ong sắp hết lương thực, những con ong đực thường bị đá ra khỏi tổ
ong.
Mật ong được làm từ
nước ngọt nhụy hoa với 20% nước và 80% đường glucose, fructose.
Ở Bắc Mỹ, đa số mật
hoa là từ cỏ ba lá (clover), berry bushes, cây dại hoa vàng (dandelion),
có nơi gọi cây bồ công anh.
Ong dùng lưỡi dài
như một cái ống để hút mật hoa vào bao tử riêng biệt. Ong có hai bao tử:
một để chứa và tiêu hóa thực phẩm và một bao tử chỉ để chứa mật hoa.
Trong bao tử này, mật hoa được các diếu tố chế biến thành mật ong.
Vào mỗi sáng sớm,
một vài chú ong “trinh sát” bay lượn trong phạm vi vài cây số để kiếm
hoa. Chúng sẽ hút thử một số mật nhụy mang về cho các ong khác giám định
phẩm chất. Khi đă quyết định mật hoa nào tốt th́ cả bầy ong sẽ kéo nhau
tới hút mật hoa. Việc hút nhụy không làm hại tới hoa, mà trong khi hút
lấy nhụy th́ ong cũng giúp hoa thụ phấn.
Để có được một bao
tử đầy mật (khoảng 70mg), ong phải hút nhụy từ vài trăm đến cả vài ngàn
bông hoa. Cho nên, muốn có nửa lít mật cần tới nước ngọt của cả triệu
bông hoa.
Khi về đến tổ, một
nhóm ong thợ khác hút lại mật hoa này, biến chế, rồi rải rộng trong
những ngăn của tổ, dùng cánh để quạt cho bay hơi nước. Sau đó mật ong
được tồn trữ trong khuôn gắn kín bằng sáp, để làm lương thực suốt năm.
Một năm bầy ong ăn hết từ 50 tới 100 kg mật.
III- CÁC LOẠI MẬT ONG
Mật ong là một chất
lỏng, hơi sền sệt, từ không mầu tới mầu hổ phách vàng nâu hoặc nâu sậm
như mật mía, tùy theo loại mật hoa. Phẩm chất của mật cũng thay đổi tùy
theo địa phương, loại hoa mà ong hút phấn và nhụy.
Mật ong thường được
thu hoạch vào mùa Xuân và mùa Hạ, buổi sáng hoặc trưa khi ong bay đi ăn
xa.
Từ tổ ong, mật được
lấy ra bằng máy ly tâm, diệt trùng bằng hơi nóng và hơi lạnh, lọc vẩn
cặn rồi vô chai. Để tăng thêm số lượng, người làm mật có thể pha thêm
đường trắng hoặc nước ngọt của bắp vào mật trước khi tung ra thị trường.
Mật tốt nhất là thứ
không hâm nóng, không lọc v́ khi hâm nóng sẽ làm mất đi mốt số chất dinh
dưỡng và phấn hoa. Mật ong không bị nhiễm độc từ môi trường v́ ong chết
khi chạm phải những chất ô nhiễm trước khi bay về tổ.
Mật ong có thể được
cất giữ ở nơi khô ráo trong nhà mà không cần để trong tủ lạnh. Để lâu,
mật có thể đổi sang mầu đậm nhưng vẫn không hư v́ trong mật có một loại
kháng sinh thiên nhiên có thể tiêu diệt các kư sinh làm hư mật. Nhưng
sau khi pha loăng với nước th́ mật sẽ mau lên men và mau hư như trái cây
hoặc rau đậu.
Khi giữ nơi nhiệt
độ lạnh, mật có thể kết tinh. Chỉ cần để trong ḷ vi ba hay trong nồi
nước ấm độ vài phút là mật ong lỏng trở lại.
SỮA ONG CHÚA (Royal Jelly)
V́ nhiều người nghĩ
rằng sữa ong chúa quư và rất bỗ dưỡng nên tự đặt ra SỮA ONG CHÚA chứ
thật ra chất lỏng này từ cuống họng ong thợ tiết ra. Đây chỉ là một chất
lỏng đặc sánh, mầu trắng như sữa, do những hạch đặc biệt ở cuống họng
ong thợ tiết ra.
V́ thấy rằng ong
chúa nuôi bằng mật này sống lâu hơn và cơ thể to hơn nên mật đă được
nhiều người ưa chuộng và giá tiền rất đắt. Sữa ong chúa được bán trong
ống nhỏ bịt kín, viên con nhộng, kem bôi, dung dịch để thoa, xà bông rửa
mặt. . .
Nhiều người tin
rằng sữa ong chúa có thể “cải lăo hoàn đồng”, làm hết các vết da nhăn
trên mặt, nuôi dưỡng da, thuốc bổ tăng cường sức khỏe, giúp đời sống
t́nh dục tốt. Các nhà sản xuất c̣n quảng cáo là sữa ong chúa chữa được
các bệnh đau gan, phong thấp khớp, thiếu máu, loét bao tử. . .
Phân tích cho thấy
sữa ong chúa có chất đạm, chất béo, carbohydrat, một số sinh tố B. Tuy
nhiên, khi dùng sữa này, ta cũng nên dè dặt v́ đă có trường hợp sữa gây
ra dị ứng, hoặc bị lên cơn suyễn.
IV-GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG
Ngoại trừ trái cây
và rau đậu, mật ong là nguồn thiên nhiên duy nhất cung cấp cho con người
những chất ngọt dễ tiêu.
Trong mật ong,
đường chiếm tỷ lệ 80%; c̣n lại 20% là nước và các chất khác. Hai thứ
đường chính là glucose và fructose Xin nhắc lại là đường trắng tinh chế
đă mất hầu hết sinh tố và khoáng chất nên đều khó tiêu và cần một vài
sinh tố B để được bao tử hấp thụ.
Ngoài đường ngọt,
mật ong c̣n chứa khoáng chất, sinh tố B, C, các chất amino acid, một ít
chất đạm, vài loại men và mấy hợp chất thơm.
Một muỗng canh mật
ong có 0.1 gr đạm chất; 17.3 gr carbohydrat, 1 mg calcium, 1 mg
phosphor, 64 calori. Mật không có chất béo nhưng có sinh tố B 6, B 1,
Magnesium, maganese, natri, kẽm.
Một bác sĩ giải
phẫu người Nga đă làm tăng các sinh tố trong mật ong bằng cách nuôi ong
với nhiều loại sinh tố.
Mật ong thường được
ăn nguyên chất với bánh ḿ. Cũng có thể pha mật ong với bơ hay margarin
rồi phết lên bánh ḿ. Mật ong có thể ăn với trái cây, khoai. . .
Khi nấu, một vài
chất dinh dưỡng trong mật bị nhiệt tiêu hủy, nên cần giữ nhiệt độ vừa
phải và chỉ cho mật ong vào nồi khi món ăn đă gần chín.
Bỏ ḷ, mật ong thấm
với các gia vị khác vào thực phẩm nên ít bị thay đổi.
Mía được làm thành
đường tinh chế sau khi chất xơ, các sinh tố và khoáng chất bị lấy đi.
Maple syrup cũng được nấu chế trước khi trở thành món ăn. Riêng mật ong
th́ hoàn toàn tự nhiên, lấy ra từ tổ ong là dùng được ngay.
Mật ong có nhiều
mùi vị khác nhau, v́ đôi khi ong bay xa cả trăm cây số để hút nhụy hoa
của nhiều thảo mộc khắp nơi trên trái đất. Dù mùi vị có khác nhau, mật
ong không mau hư, có thể cất giữ ở ngoài tủ lạnh.
V- CÔNG DỤNG TRỊ BỆNH
Từ nhiều ngàn năm
về trước, các sách y học Ai Cập đă coi mật ong là thuốc chữa bệnh rất
phổ thông. Hippocrates khuyên dân chúng pha mật với nước uống để làm
giảm nóng sốt.
Trong các cuộc
chiến tranh vào thời cổ Hi Lạp, Trung Hoa, La Mă, người ta đă biết dùng
mật ong để chữa vết thương bị làm độc.
Sách tham khảo The
Edinburgh New Dispensatory xuất bản năm 1811 có ghi: “Từ xưa, mật ong
đă được dùng như một loại thuốc rất tốt để làm long đờm, làm mềm dịu các
mụn nhọt, để rửa các vết lở loét trên da”.
Tại Úc châu và Tân
Tây Lan, mật ong được phép bán như một dược phẩm để trị bệnh.
Như vậy, ta thấy
mật ong đă là một môn thuốc dân gian từ lâu đời.
Mật ong đă và đang
được dùng để chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian hoặc các nhà nghiên cứu
trong những trường hợp sau.
Mật ong bồi bổ,
tăng cường sinh lực, rất tốt cho người bị bệnh đang hồi phục. Uống mật
ong trước khi vận động cơ thể khiến ta không cảm thấy mệt và tập luyện
lâu hơn.
Mật ong làm bớt
căng thẳng, làm thư giăn thể xác và tâm hồn.
Trước khi đi ngủ,
uống mật ong khiến giấc ngủ ngon hơn. Theo một nghiên cứu của Viện Công
Nghệ Massachusetts (Massachusett Institute of Technology-MIT), chất ngọt
của mật làm năo tiết ra nhiều serotonin mà serotonin lại làm dịu hoạt
động của năo, khiến ta ngủ dễ dàng.
Mật làm sự tiêu
hóa được dễ dàng nhờ chất đường dễ tiêu glucose và fructose.
Mật ong làm giảm
ho v́ thông đàm, rất tốt cho người bị suyễn, viêm cuống phổi, ho gà.
Mật có phấn hoa
nên đă được dùng để làm cơ thể quen dần với phấn hoa, tránh dị ứng theo
mùa, nhất là vào mùa xuân. Đấy cũng là nguyên tắc được áp dụng để làm
người dị ứng với phấn hoa trở nên quen đi bằng cách tiêm một lượng rất
nhỏ phấn hoa vào cơ thể.
Mật ong rất tốt để
làm bớt đau cuống họng, làm sạch răng miệng, làm mau lành lở miệng, lở
mép nhờ có chất hydrogene peroxide.
Mật ong làm mau
lành các vết thương ngoài da, có tính cách khử trùng và là hàng rào tốt
để cản sự xâm nhập của vi trùng vào các vết thương.
Các nghiên cứu ở
Ấn độ cho thấy bệnh nhân bị phỏng mà được bôi bằng mật th́ da mau lành
hơn là chữa với thuốc trị phỏng silver sulfadiazine.
Một bác sĩ giải
phẫu người Anh nổi tiếng đă bôi mật ong lên các vết thương và thấy vết
thương mau lành hơn là khi bôi thuốc kháng sinh.
Các bác sĩ nhi
khoa ở Phi châu cho hay mật ong rất công hiệu trong việc chữa bệnh tiêu
chẩy trẻ em do vi khuẩn Salmonella, E-coli gây ra. Mật ong diệt vi sinh
vật bằng cách hút hết chất lỏng trong vi khuẩn, làm chúng trở nên khô
héo.
Tổ chức Y Tế Thế
Giới (WHO) khuyên người đi du lịch mắc bệnh tiêu chẩy th́ uống nhiều
nước cam có pha mật ong, một chút muối và một chút baking soda đề bù lại
số nước và khoáng chất mất đi.
Nhờ có khoáng chất
boron, mật ong có thể pḥng ngừa bệnh loăng xương, nhất là ở nữ giới.
Chất này cũng làm giảm các triệu chứng khó chịu khi có kinh nguyệt.
Mật ong rất tốt
cho da: Thoa trên da, mật ong làm da mịn, mềm hơn v́ mật giữ độ ẩm cho
da. Mật làm bệnh trứng cá mau lành; bôi lên tóc, mật làm tóc bóng mượt
và mềm.
Mật ong có một
lượng chất chống oxy hóa (antioxidant) tốt tương đương như sinh tố C,
nên có khả năng làm chậm tiến tŕnh lăo hóa của tế bào sinh động vật,
giảm nguy cơ ung thư. Mật càng đậm càng có nhiều chất chống oxy hóa.
Điều Lưu Ư: Cơ
quan Kiểm Soát Bệnh Tật Hoa Kỳ (Center for Disease Control and
Prevention) lưu ư là không nên cho trẻ em dưới một tuổi dùng mật ong v́
cơ thể các em chưa đủ sức chống lại loại vi khuẩn gây bệnh trúng độc
thực phẩm (clostridium botulinum ), đôi khi có lẫn trong mật.
VI -KẾT LUẬN
Những con ong nhỏ
bé nhưng với sự tinh xảo do thiên nhiên ban cho đă tốn nhiều công sức để
tạo ra món thực phẩm ngon lành, bổ dưỡng và quư giá để cho con người tận
hưởng.
Nhưng mật ong dù
tốt cũng không phải là loại thực phẩm có thể thay thế cho tất cả. Hơn
nữa, nếu lạm dụng mật ong quá mức th́ chắc chắn cũng sẽ có những phản
ứng bất lợi cho cơ thể. V́ thế, cho dù sẵn có mật ong để dùng, chúng ta
cũng biết hạn chế ở một mức độ vừa phải mà thôi.