Những nghiên cứu của
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (World Health Organization) tiên đoán rằng tới năm
2020 th́ bịnh trầm cảm (major depression) sẽ trở thành căn bịnh thứ nh́
dẫn đến tàn tật (disability) trên toàn thế giới và căn bịnh thứ nhứt dẫn
đến tàn tật ở những nước đang phát triển.
Bịnh trầm cảm là
một bịnh rất phổ biến. Cứ 100 người có đến 10 người bị bịnh này và xác
suất bị bịnh này trong đời người (lifetime prevalence) có thể đến 15%.
Hiện thời chưa có những thống kê về bịnh trầm cảm ở người Việt Nam. Có
nhiều nghiên cứu cho thấy rằng cuộc sống gây căng thẳng tinh thần hay
những biến cố tạo khủng hoảng trong cuộc sống là nguyên nhân gây bịnh
trầm cảm.
Theo kinh nghiệm
của người viết th́ bịnh trầm cảm xảy ra ở người Việt Nam có xác suất cao
hơn người Mỹ bản xứ. Lư do là đa số người Việt Nam sống ở hải ngoại là
người tị nạn và họ đă trải qua rất nhiều biến cố, khủng hoảng trong đời
sống. Những khủng hoảng đó là chiến tranh Việt Nam, tù cải tạo, thuyền
nhân vượt biển, nhiều khó khăn đáp ứng với văn hóa nước ngoài và đời
sống kinh tế không tốt đẹp.
Ta có thể ước lượng
rằng xác suất của thế hệ thứ nhứt, sanh trưởng tại Việt Nam và di tản
định cư ở hải ngoại, bị trầm cảm có thể gấp 2 hay 3 lần người bản xứ.
Đây là thế hệ đă trải qua rất nhiều biến cố, khủng hoảng như đă kể trên.
Một số người v́ mưu sinh, sống c̣n đă vượt qua được những triệu chứng
trầm cảm lần đầu tiên. Nhưng vài năm sau đó, hệ thống thần kinh bị suy
nhược sẵn, chỉ có một biến cố nhẹ hơn trong cuộc sống (thí dụ như xích
mích vợ chồng hoặc con cái rời nhà sống riêng) cũng có thể gây ra bịnh
trầm cảm nặng (major depression).
Thế hệ thứ 1.5,
sinh tại Việt Nam di tản và định cư theo cha mẹ ở nước ngoài lúc c̣n nhỏ,
cũng có những căng thẳng riêng của họ. Đó là những mâu thuẫn về nguồn
gốc của ḿnh. Họ không hẳn là người Việt cũng không hẳn là người bản xứ
hoàn toàn nên có nhiều khó khăn trong việc đáp ứng kết hợp văn hóa bản
xứ với văn hóa của gia đ́nh. Nếu theo phong tục của bạn th́ về nhà phụ
huynh không vừa ḷng, c̣n theo phong tục gia đ́nh th́ khó đáp ứng được
với bạn bè cùng trang lứa.
I-Những dấu hiệu của bịnh trầm cảm
Người Á châu ít
chịu công nhận những triệu chứng của bịnh trầm cảm v́ những lư do văn
hóa. Hiện thời có rất nhiều sự hiểu lầm về bịnh trầm cảm. Xă hội tin
rằng những người bị trầm cảm là những người lười biếng với ư chí bị suy
kém. Người ta c̣n tin rằng bịnh trầm cảm là một bịnh tưởng tượng v́ bác
sĩ gia đ́nh không t́m được nguyên do thể chất của những triệu chứng đau
nhức của bịnh trầm cảm. Một số khác nghĩ rằng bịnh nhân trầm cảm có
“tánh xấu” v́ họ hay bực bội cau có gây gổ với mọi người.
Bịnh trầm cảm không
giống như bịnh cảm, ta ngủ một đêm sáng thức dậy thấy mệt mỏi và nghẹt
mũi. Bịnh trầm cảm xảy ra rất chậm cho nên đôi lúc bịnh nhân không nh́n
ra được những dấu hiệu của nó v́ những triệu chứng trầm cảm tăng từ từ.
Đến lúc bịnh trầm cảm trở thành nặng, người bịnh không đi làm được hay
không sinh hoạt b́nh thường trong gia đ́nh th́ mới t́m bác sĩ để trị
bịnh.
V́ những lư do trên
mà những bịnh nhân Á châu khi khai những triệu chứng trầm cảm, họ ít khi
chịu khai những triệu chứng tâm lư mà liệt khai những triệu chứng thể
xác đánh lạc hướng chẩn đoán của bác sĩ gia đ́nh. Theo cách chẩn đoán
của khoa tâm thần th́ hai triệu chứng chính để chẩn đoán trầm cảm là:
buồn sầu (depression) và mất sự hứng thú trong đời sống (anhedonia).
Những triệu chứng này ít thấy những người bịnh nhân Á châu than phiền.
Nếu có than phiền về sự mất hứng thú th́ họ hay ghép vào đó một nguyên
nhân chính đáng như cơ thể bị đau nhức kinh niên chẳng hạn. V́ thế một
số đông bịnh nhân Á châu không được chẩn đoán và trị liệu đúng mức.
Những triệu chứng
trầm cảm thường được thấy ở những bịnh nhân Á châu là những cơn đau nhức
bất thường, giấc ngủ bị thay đổi (mất ngủ hay ngủ li b́), người hay mệt
kinh niên, xáo trộn trong khẩu vị (ít ăn, xuống cân), hay quên, không
tập trung tư tưởng được, người hay “tự ái”, dễ bực bội (irritability).
Ngay cả triệu chứng bực bội cũng được che đậy qua những lư do như những
căng thẳng ở sở làm, con cái không vâng lời, người hôn phối không đối xử
tốt với ḿnh. Chính v́ thế mà khi mới nghe bịnh nhân kể lể, bác sĩ gia
đ́nh ít khi nghĩ đến bịnh trầm cảm. Thật ra những căng thẳng trong cuộc
sống ai cũng có, nhưng đối với người bị trầm cảm căng thẳng được cảm
nhận nhiều hơn b́nh thường.
Những nghiên cứu
gần đây cho thấy rằng khoảng 60% bịnh nhân trầm cảm bị đau nhức trong
người. Gần 1/3 (30%) bịnh nhân đau kinh niên bị bịnh trầm cảm. Ở nước Mỹ,
hàng năm có khoảng 400 triệu chuyến khám bác sĩ (clinic visits) th́ gần
phân nửa là v́ đau nhức. 90% những bịnh nhân có những triệu chứng tâm lư
được chẩn đoán đúng mức. Nhưng chỉ có 50% bịnh nhân trầm cảm có triệu
chứng thể xác được bác sĩ gia đ́nh chẩn đoán và nhận ra bịnh trầm cảm.
Nếu những bịnh nhân này có kèm theo những bịnh về thể xác th́ xác suất
nhận ra bịnh bịnh trầm cảm chỉ có 20% mà thôi.
Theo cách chẩn đoán
của khoa Tâm Thần th́ chỉ cần 2 tuần lễ có những triệu chứng trầm cảm kể
trên thường xuyên ảnh hưởng đến cuộc sống gia đ́nh và xă hội là hội đủ
điều kiện của bịnh trầm cảm. Tuy nhiên trên thực tế, bịnh nhân chờ đợi
rất lâu, cả tháng đến cả năm trời mới chịu đi khám bác sĩ. Thời gian
chần chờ chữa trị lâu hơn ở bịnh nhân Á châu v́ họ rất sợ bị gán cho cái
bịnh tâm thần (mental illness). Khi chần chờ lâu th́ hệ thống thần kinh
bị suy thoái nhiều gây rắc rối cho việc chữa trị. Ngoài ra khi bịnh trầm
cảm trở nên nặng th́ bịnh nhân thường có những ư nghĩ chán đời, không
muốn sống và thậm chí có ư định tự tử.
II-Bịnh trầm cảm có cơ sở thần kinh học (neurology)
Những nghiên cứu
chụp h́nh năo mới nhất cho thấy rằng bịnh trầm cảm không phải là một
bịnh “tưởng tượng” v́ nó gây ra rất nhiều biến đổi trong sự hoạt động
của năo bộ. Những cơ cấu thần kinh (brain structures) và mạch thần kinh
(neural circuits) điều ḥa những triệu chứng căng thẳng thể xác được
dùng chung với bịnh trầm cảm. Chính v́ thế mà khi bị trầm cảm, bịnh nhân
có nhiều triệu chứng tâm lư lẫn thể xác. Cái khác biệt là bịnh nhân Á
châu lọc ra những triệu chứng tâm lư, chỉ khai với bác sĩ những triệu
chứng thể xác.
Những nghiên cứu
chụp h́nh năo bằng PET scan hay fMRI cho thấy rằng khi bị trầm cảm, hệ
thống limbic (limbic system) hoạt động quá độ từ đó sinh ra những triệu
chứng căng thẳng tinh thần như cau có, lo âu phiền năo, mất ngủ,... Hệ
thống cortex (cortical system) hoạt động yếu, sinh ra những triệu chứng
như thiếu sự chăm chú, mất khả năng suy xét, mất sự nhậy bén lanh lẹ,...
Khi bịnh trầm cảm được điều trị th́ những mất quân b́nh kể trên đổi
chiều và b́nh thường trở lại.
Khi bị trầm cảm lâu
ngày, sự căng thẳng thường xuyên sẽ tạo ra những kích thích tố xấu (glucocorticoids)
làm giảm những chất nuôi dưỡng tế bào thần kinh (Brain derived nerve
growth factor, viết tắt BDNF). Khi glucocorticoids tăng và BDNF giảm th́
sẽ làm hư hỏng một số tế bào thần kinh. Nhóm tế bào thần kinh kết cấu
tạo thành vùng hippocampus rất nhậy cảm với glucocorticoids. Khi những
tế bào thần kinh chết dần, cấu trúc này bị thoái hóa (atrophy). Vùng
hippocampus của óc rất quan trọng trong việc giúp ta có trí nhớ ngắn hạn.
V́ thế khi bị căng thẳng hay trầm cảm lâu ngày không trị liệu th́ trí
nhớ sẽ bị ảnh hưởng xấu. Lạm dụng x́ ke ma túy cũng có tác động tương tự
lên vùng hippocampus.
Có rất nhiều nguy
cơ xảy ra khi bịnh trầm cảm không được điều trị đúng mức. Nguy cơ ở cá
nhân th́ như đă kể ở bài trước, khi bị căng thẳng (stress) lâu ngày th́
sẽ làm hư hỏng nhiều phần của năo bộ. Mới đầu ta chỉ thấy sự xáo trộn
trong sự phân phối hoạt động của các vùng trong năo bộ, như vùng limbic
hoạt động quá độ c̣n vùng cortex hoạt động kém hơn. Khi để lâu sự mất
quân b́nh này dẫn đến sự xáo trộn về chất thần kinh giao nối
(neurotransmitter imbalance) và sau đó dẫn đến sự xáo trộn về nội tiết
(endocrine imbalance). Khi nội tiết bị xáo trộn th́ hiện nay chưa có
cách trị hữu hiệu v́ khoa học chưa phát minh ra thuốc trị nội tiết mất
quân b́nh.
Bịnh trầm cảm ảnh
hưởng xấu đến các bịnh thể xác khác một cách gián tiếp và trực tiếp.
Căng thẳng của chứng trầm cảm làm bịnh nhân cảm thấy đau nhức nhiều hơn
người không bị trầm cảm. Khi uống thuốc th́ họ bị phản ứng phụ nhiều hơn
v́ sự căng thẳng làm giảm sự chịu đựng của cơ thể họ, do đó mà các bịnh
khác không được trị đúng mức. Khi bị trầm cảm nặng, bịnh nhân chán
chường nên bỏ bê việc uống thuốc thường xuyên, không tập thể dục và ăn
uống bất thường làm các bịnh như tiểu dường hay cao máu nặng hơn. Ngoài
ra trầm cảm cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống miễn nhiễm (immune
system), các bịnh tim mạch, đường ruột, hô hấp làm triệu chứng của các
bịnh này nặng hơn.
Ở nam giới bịnh
trầm cảm không được chữa trị dễ dẫn đến lạm dụng rượu, hút thuốc và x́
ke ma túy. Sự nghiện ngập hút xách sẽ làm bịnh trầm cảm nặng hơn. Nó sẽ
dẫn đến sự sụp đổ gia đ́nh rất nhanh. Những nghiên cứu cho thấy sự bạo
hành gia đ́nh tăng lên với người bị trầm cảm. Nguy cơ tử vong khi tự tử
rất cao ở nam giới bị trầm cảm. Nguy cơ này cao hơn nữa nếu bịnh nhân
trầm cảm hút xách và mất tự chủ. Ngoài ra c̣n có nguy cơ làm hại sinh
mạng kẻ khác khi trong lúc say rượu và tuyệt vọng, bịnh nhân giết con
cái hay hôn phối của ḿnh.
Về gia đ́nh th́
người bịnh trầm cảm bỏ bê sinh hoạt gia đ́nh, thích ở trong pḥng một
ḿnh, hay gây gỗ với người thân, họ bị tự ái quá độ, t́nh cảm mất quân
b́nh, dễ la lối khóc lóc v́ thế mà quan hệ gia đ́nh rất căng thẳng. Một
số người mất sự thích thú t́nh dục, không thích chưng diện, không chăm
sóc người phối ngẫu, làm quan hệ hôn nhân bị lung lay. Nếu là phụ huynh
th́ sự chăm sóc con cái bị suy giảm, khiến người phối ngẫu phải làm việc
nhiều hơn, đó cũng là một nguyên nhân đưa đến sự xung đột trong gia đ́nh.
Phụ huynh bị trầm cảm không dằn được cơn bực bội hay la mắng, thậm chí
đánh đập con cái rồi sau đó họ bị mặc cảm tội lỗi dày ṿ. Nguy cơ ly dị
ở người bị trầm cảm cao hơn b́nh thường.
Người bịnh trầm cảm
không đáp ứng được với những nhu cầu của công việc. Họ dễ bị căng thẳng
khi bị đồng nghiệp hay chủ sở phê b́nh. Họ làm việc chậm hơn người
thường v́ thiếu chăm chú và hay quên. Họ hay mất ngủ và sáng vào sở uống
cà phê thật nhiều. Lạm dụng cà phê sẽ làm cơ thể căng thẳng hơn và sau
đó họ sẽ lâm vào trường hợp mệt mỏi và hay bị lo âu quá độ. Lâu ngày
tinh thần sẽ sa sút càng nhiều và những căng bịnh thể xác như nhức mỏi,
nhức đầu sẽ ngày càng nhiều. Đến mức độ nào đó họ sẽ mất khả năng làm
việc hữu hiệu và bị đuổi sở. Khi mất việc làm th́ bịnh trầm cảm sẽ qua
giai đoạn nặng, có nguy cơ tự tử.
Nói tóm lại những
cảnh địa ngục trần gian sẽ tránh được khi bịnh trầm cảm được chẩn đoán
và điều trị đúng mức.
Bịnh trầm cảm không
phải lúc nào cũng phải được trị bằng thuốc men. Ta có thể thay đổi cuộc
sống và lối suy suy nghĩ để tránh bịnh trầm cảm trở thành nặng. Một số
người khi thay đổi cách suy nghĩ và lối sống th́ căng thẳng (stress)
giảm đáng kể, từ đó mà các triệu chứng trầm cảm bớt đi và có thể hết.
Thí dụ như giảm công việc lại, làm ít giờ hơn, có nhiều thời gian sinh
hoạt với gia đ́nh, dành nhiều thời giờ đối thoại với người phối ngẫu để
san bằng cái hố hiểu lầm. Nếu là sinh viên th́ giảm số giờ học (units)
lại, tăng thời gian nghỉ ngơi và ăn ngủ điều độ. Tránh lạm dụng cà phê
hay rượu chè. Tập thể dục thể thao cũng có khả năng làm giảm trầm cảm.
Tập thể thao thường xuyên sẽ làm tăng chất BDNF (Brain Derived
Neutrophic Factor), giúp những tế bào thần kinh sống lâu hơn.
T́m hiểu tôn giáo
để học hỏi những cách sống cho tâm hồn thư thản cũng là một cách pḥng
ngừa trầm cảm. Những nghiên cứu cho thấy tâm tĩnh lặng (mindfulness) rất
hữu hiệu trị lo âu và trầm cảm. Khi suy nghĩ lo âu nhiều quá th́ ta tạo
căng thẳng cho hệ thống thần kinh. Khi hệ thần kinh làm việc quá độ th́
sẽ gây ra những triệu chứng lo ra và mất trí nhớ. Tâm tĩnh lặng tạo
những thay đổi tốt cho năo bộ và được thể hiện qua sơ đồ điện năo (EEG)
và chụp h́nh PET scan. Căng thẳng kinh niên sẽ gây ra bịnh trầm cảm.
Tinh thần cạnh tranh, hơn thua tạo ra rất nhiều căng thẳng và không
thích hợp với bịnh trầm cảm. Nếu người có di truyền trầm cảm, căng thẳng
sẽ làm trầm cảm phát triển sớm hơn. Những pháp môn tôn giáo như niệm
Phật, cầu nguyện Chúa, hay thiền là những cách giáng tiếp hay trực tiếp
dẫn đến tâm tĩnh lặng.
Tâm lư học có những
phương pháp tâm lư trị liệu như tâm lư trị liệu nâng đỡ (supportive
therapy), tâm lư trị liệu nhận thức và hành động (cognitive behavioral
therapy) để giúp người bị trầm cảm đi qua những cơn khủng hoảng tinh
thần và giúp họ hội nhập vào gia đ́nh và xă hội. Tâm lư trị liệu dùng
tâm tĩnh lặng (mindful therapy) rất thành công ở những bịnh nhân bị ung
thư và trầm cảm đi đôi. Ở những bịnh trầm cảm nặng, tâm lư trị liệu phối
hợp với thuốc men công hiệu hơn là trị thuốc men một ḿnh.
Nói về cách trị
liệu bằng thuốc th́ hiện nay nhóm thuốc làm tăng Serotonin (Selective
Serotonin Reuptake Inhibitor-SSRI) rất phổ biến trong việc dùng trị bịnh
trầm cảm. Nhóm thuốc này gồm có Fluoxetine (Prozac), Paroxetine (Paxil),
Sertraline (Zoloft), Citalopram (Celexa) và Escitalopram (Lexapro).
Những loại thuốc trên có thể đều có công dụng bằng nhau nhưng khác về
phản ứng phụ. Bác sĩ tùy triệu chứng của bịnh nhân mà chọn thuốc. Ngoài
ra c̣n có nhóm thuốc ảnh hưởng Serotonin và Norepinephrine (Serotonin-Norepinephrine
reuptake inhibitor- SNRI). Nhóm thuốc này gồm có Venlafaxine (Effexor)
và Duloxetine (Cymbalta). C̣n nhiều thuốc nữa không tiện liệt kê ra hết.
Càng ngày càng có nhiều loại thuốc mới ra nên việc trị liệu bịnh trầm
cảm tương đối hữu hiệu hơn lúc trước.
IV-Những điều cần quan tâm khi trị bịnh trầm cảm bằng thuốc men
Những nghiên cứu
thuốc trầm cảm ở trẻ em cho thấy rằng loại thuốc này có thể tăng những ư
muốn tự vận. Không có trường hợp hoàn tất tự tử (suicide completion).
Con số này rất nhỏ tuy nhiên FDA vẫn ra thông báo để cho các bác sĩ đề
pḥng. Các nhà nghiên cứu nghĩ rằng một số những đứa trẻ có ư muốn tự
vận bị chẩn đoán lầm. Những em này có thể bị bịnh t́nh cảm lưỡng cực
(bipolar affective disorder), khi uống thuốc trầm cảm, trong người thấy
bứt rứt khó chịu hay bực bội nhiều hơn mà không tự chủ được.
Những giai đoạn bác
sĩ cần theo dơi bịnh nhân kỹ là giai đoạn khởi đầu uống thuốc và giai
đoạn điều chỉnh thuốc liều cao hơn. Nếu bịnh nhân uống thuốc trầm cảm
cảm thấy khó chịu, có những cơn vui quá độ (mania), cảm thấy năng lực
tăng thật nhiều mà không cần ăn và ngủ, th́ nên dừng thuốc và thông báo
bác sĩ tức thời. Nói chung, thuốc trị trầm cảm rất an toàn.
V-Tóm lại
Bịnh trầm cảm không
phải là một bịnh tưởng tượng như người ta thường nghĩ. Người bịnh trầm
cảm không thể dùng ư chí để vượt qua căn bịnh này mà cần phải được trị
liệu đúng cách. Bịnh này cũng không hẳn chỉ là bịnh tâm thần v́ nó có
nhiều triệu chứng về thể xác, và nó có cơ sở thần kinh sinh lư học
(neurobiology). Nếu không trị đúng mức bịnh này sẽ gây tai hại cho cuộc
sống cá nhân, gia đ́nh và xă hội.