Trang Thơ và Truyện của Lê Ánh                |                 www.ninh-hoa.com

Bs LÊ ÁNH
Bút hiệu:
LÊ P Thọ


 
 
Quê làng Phú Thọ, Ḥn Khói, Ninh Ḥa,
Khánh Ḥa, Việt Nam
Cựu học sinh các trường Tiểu học Pháp Việt,Ninh Ḥa, Trung học Vơ Tánh
Nha Trang, Việt Nam
Tốt nghiệp Y Khoa Bác Sĩ tại Đại Học Y Khoa Sài G̣n

Làm việc tại Quân Y viện Pleiku, Bệnh viện
Nguyễn Tri Phương, Sài G̣n,

Làm việc tại Covenant Medical Center, Lubbock, Texas, Hoa Kỳ.

 

 

Hiện làm vườn tại Phoenix, Arizona, Hoa Kỳ.

 Tập ṭ viết lách dưới bút hiệu Lê Phú Thọ,
Anh Tư Ḥn Khói.

 

 

 

 

 


 

BỆNH TẮC PHỔI KINH NIÊN

Bs Lê Ánh
 

 

 

Bệnh tắc phổi kinh niên làm các ống dẫn không khí vào phổi hẹp lại, người bệnh hít thở khó khăn, kém hữu hiệu, không đủ dưỡng khí (oxygen) cần thiết cho cơ thể. Khác với suyễn (asthma) gây tắc phổi cấp tính nhất thời, xong rồi thôi, lúc lên cơn suyễn th́ khổ, lúc cơn suyễn biến mất, người bệnh khỏe lại như thường. Tắc phổi kinh niên khiến cho người bệnh không mấy khi hoàn toàn dễ thở, và căn bệnh cứ từ từ tiến triển nặng hơn. Bệnh tắc phổi kinh niên (chronic obstructive pulmonary disease) hay được gọi tắt là COPD.

Hai bệnh hay đưa đến t́nh trạng tắc phổi kinh niên là “viêm ống phổi kinh niên” (chronic bronchitis) và “phế thủng” (emphysema).

I-                 NGUYÊN NHÂN:

Đa số khoảng 80-90% các trường hợp tắc phổi kinh niên do hút thuốc lá. Càng hút sớm, hút lâu năm, hút nhiều, càng dễ bị tắc phổi kinh niên. Người không hút, nhưng thường xuyên ngửi khói thuốc lá người khác hút, sau cũng dễ mang bệnh.

Một số ít người mang bệnh di truyền, sanh ra cơ thể đă thiếu chất “alpha 1-antitrypsin”, một chất có tác dụng làm bền vững các cơ cấu trong phổi, cũng dễ bị tắc phổi kinh niên (B́nh thường, lượng “alpha 1-antitrypsin” trong máu 150-350mg/dL, người có “alpha 1-antitrysin” trong máu dưới 80mg/dL dễ mang bệnh). Những người không may này hay mang bệnh trưóc tuổi 50, sớm hơn người bị bệnh do gây do hút thuốc.

Các yếu tố khác dễ đưa đến tắc phổi kinh niên: ô nhiễm môi trường do sống trong vùng kỹ nghệ, tuổi đời càng cao, đàn ông (male gender), nghèo (lower socioeconomic status), làm việc trong những môi trường có nhiều chất bụi hóa học hoặc hơi độc, hồi tuổi thơ nhiễm trùng đường hô hấp nặng.

Tuy nhiên, khói thuốc lá, hít vào phổi năm này đến năm khác, là yếu tố hàng đầu đưa đến bệnh tắc phổi kinh niên, đặc biệt cho những người có thêm những yếu tố kể trên. Nên, có thể nói, gần như tắc phổi kinh niên là bệnh riêng của những người hút thuốc. Trong khi suyễn xảy ra cả ở người hút thuốc lẫn không hút thuốc.

II- TRIỆU CHỨNG:

Khác với suyễn gây tắc phổi cấp tính, tấn công cả trẻ em, bệnh tắc phổi kinh niên (COPD), thường chỉ xuất hiện ở người lớn, đă hút thuốc khoảng 30 năm. Nhưng một khi nó xảy ra, thường nó sẽ từ từ tiến tới, bệnh trở nặng dần với thời gian.

Đa số người bệnh bắt đầu đi thăm bác sĩ trong khoảng tuổi 40-50, v́ ho có đàm. Đến khi tuổi 50, 60, họ cứ vận động một chút, lại thấy khó thở. Rồi từ từ bệnh lại trở nặng dần, khạc đàm đặc vàng, thở kḥ khè như suyễn, khó thở, nóng sốt. Căn bệnh hiện nguyên h́nh. Bỏ thuốc lá sẽ khiến căn bệnh tiến triển chậm lại nhiều. V́ vậy, không bao giờ quá muộn để bỏ thuốc lá!

Khi bệnh nặng dần (ho, khạc đàm vàng, kḥ khè, ngồi chơi không thôi cũng khó thở), cơn bệnh cứ xảy ra luôn, bất cứ lúc nào.

Người tắc phổi kinh niên do viêm ống phổi kinh niên có triệu chứng xảy ra sớm hơn người phế thủng, ho khạc ra đàm đặc, vàng nhiều hơn, nhưng ít khó thở hơn người phế thủng. Người viêm ống phổi kinh niên trông mập mạp, nước da hơi tái.

Ngược lại, người tắc phổi kinh niên do phế thủng, có triệu chứng muộn hơn người viêm ống phổi kinh niên khoảng 10 năm. Khi triệu chứng xảy ra, họ ho ít hơn, song khó thở nhiều hơn, có khạc ra đàm, đàm không đặc, vàng nhưng trăng trắng, trông như nhớt. Người phế thủng trông gầy c̣m, nước da tương đố́ hồng hồng.

Đa số người tắc phổi kinh niên vừa có viêm ống phổi kinh niên, vừa có phế thủng phối hợp. Đôi lúc có người c̣n có thêm suyễn. V́ thế cho nên các triệu chứng nhiều khi không rơ rệt như đă tả ở trên; bác sĩ cần thận trọng, tinh ư, dựa vào sự thăm khám kỹ, đồng thời dựa vào các phương tiện định bệnh như h́nh phim ngực (chest X-ray), hoặc đo cơ năng phổi (pulmonary function test) để chẩn đoán phân biệt.

III –ĐỊNH BỆNH:

 Người tắc phổi do viêm ống phổi kinh niên, trông mập mạp, nước da tái xanh (cyanosis). Không khó thở, không thở nhanh, người bệnh có vẻ b́nh tĩnh. Khám phổi nghe những tiếng kḥ khè, lúc to lúc nhỏ, lúc nghe ở vùng phổi này, lúc lại nghe ở vùng phổi khác, nếu bảo người bệnh thở sâu và ho.

Người tắc phổi do phế thủng trông dáng gầy c̣m, nước da hồng hồng. Khi thở, họ phải dung sức để thở, mỗi hơi hít vào là một khó khăn, các bắp thịt ở cổ, ở ngực gồng cả lên, cố gắng giúp phổi nở ra để hút lấy dưỡng khí vào phổi. Thở nhanh, khó thở, môi chụm lại (pursed lips), mỗi lần thở ra, họ lại gừ lên một tiếng nhẹ. Khám ngực người phế thủng thấy lồng ngực to ph́nh và khi hít thở, lồng ngực không chuyển động nhiều như lồng ngực của người b́nh thường. Gơ ngưc nghe bung bung như tiếng trống (hyperresonant). Hít vào thở ra có 2 th́: th́ hít vào (inspiratory phase) và th́ thở ra (expiratory phase). Th́ thở ra ở người phế thủng dài hơn b́nh thường, tiếng động phổi lại nghe xa xôi, mơ màng có chút kḥ khè với âm giai cao (high pitch rhonchi) vào cuối th́ thở ra. Lồng ngực người phế thủng ph́nh to, khiến tim bị đẩy lui vào sâu bên trong ngực, nên khi khám tim, tiếng tim nghe thoang thoảng xa xăm.

Phim ngực (chest X-ray) cũng cho thấy nhiều điểm khác biệt.

Phim ngực người viêm ống phổi kinh niên cho thấy các ống phổi và mạch máu (bronchovascular markings) tăng nhiều bất thường ở đáy phổi, bóng tim to lên.

Trong khi phim ngực của người phế thủng cho thấy ngực ph́nh to như thùng ton-nô (barrel chest), phổi trông bất thường, ít các ống phổi và mạch máu, tim lại dài ra, thỏn nhỏ.

Người bệnh suyễn, thỉnh thoảng ho, kḥ khè, khó thở, nhưng ngoài những lúc ấy, họ trở lại b́nh thường. Phim ngực của người bệnh suyễn trông b́nh thường, không có những dấu chứng của viêm ống phổi kinh niên hoặc phế thủng. Những khác biệt này cũng được chứng minh bởi máy đo cơ năng phổi (spirometry). Máy đo cơ năng phổi c̣n giúp ta tiên đoán dư hậu (prognostic) căn bệnh, tương lai của người tắc phổi kinh niên.

Trong các trị số cho bởi máy đo cơ năng phổi có một trị số quan trọng là FEV1 (forced expiratory volume in 1 second: khối lượng khí thở ra thực mạnh trong 1 giây), tính theo phần trăm (%), so với trị số của một người b́nh thường.

Người b́nh thường có FEV1 từ 75% trở lên. Dựa vào trị số này, Hiệp Hội Bệnh Ngực Hoa Kỳ (American Thoracic Society) chia bệnh tắc phổi kinh niên thành 3 mức độ từ nhẹ đến nặng:

·                    FEV1 trên 50%, tắc phổi kinh niên mức độ I (stage I).

·                    FEV1từ 35% đến 49%, tắc phổi kinh niên mức độ I I (stage I I).

·                    FEV1 dưới 35% : tắc phổi kinh niên mức độ I I I (stage I I I).

 Người tắc phổi kinh niên mức độ I và I I khó thở khi vận động hay làm việc nặng. Người tắc phổi kinh niên mức độ I I I nặng nhiều hơn, thường đi thăm pḥng cấp cứu và nhiều lúc cần được chữa trị trong bệnh viện. Khi FEV1 xuống dưới 25%, bệnh rất nặng, gây khó thở thường xuyên.

Khi bệnh đă sang mức độ I I hoặc I I I, bệnh nhân cần phải đo thường xuyên nồng độ dưỡng khí (oxygen) trong máu (arterial blood gas) để xác định xem người bệnh có cần dưỡng khí để thở ở nhà hay không.

B́nh thường, nồng độ dưỡng khí trong máu từ 80 đến 100mg Hg. Nếu lúc nghỉ ngơi, chẳng làm ǵ nặng, mà nồng độ dưỡng khí trong máu dưới 55 mg Hg, người bệnh cần có oxygen để thở liên tục ở nhà. Người tắc phổi kinh niên tuổi càng cao, có FEV1càng thấp, nồng độ dưỡng khí trong máu càng thấp, xuống cân càng nhiều, tương lai không sáng sủa lắm.


IV- ĐIỀU TRỊ:

Phổi người tắc ống phổi kinh niên mong manh, dễ bị nhiều yếu tố khiến các ống dẫn không khí vào phổi (gọi tắt là ống phổi) co thắt, hẹp tắc them, đồng thời, c̣n khiến đàm nhớt tiết ra nhiều hơn trong các ống ấy. Khi đàm nhớt tiếc ra nhiều quá như vậy, ho khạc không xuể, sẽ ứ lại trong các ống phổi, đút nút chúng, khiến chúng tắc thêm. Người bệnh thở thêm khó, ho dữ hơn, khạc đàm nhiều và khác với b́nh thựng. Có khi, cơn bệnh trở nặng gây t́nh trạng suy hô hấp (respiratory failure) rất nguy hiểm.

 Việc chữa trị căn bệnh những lúc nó trở nặng.

Nhiễm trùng, do siêu vi trùng (virus) hoặc vi trùng (bacteria), là nguyên nhân biết rơ nhất hay làm tắc phổi kinh niên trở nặng. Nhiều siêu vi “influenza” gây cúm, siêu vi “adenovirus” gây cảm, có thể làm tắc phổi kinh niên trở nặng. Về phía vi trùng, các con có tên “Streptococcus pneumonia”, “Hemophilus influenza”, “Mycoplasma pneumonia”, “Moracella (Bronchamelia) catarrhalis” hay là thủ phạm gây những cơn trở nặng.

Ô nhiễm môi trường, sưng phổi (pneumonia), máu đông từ nơi khác bắn lên phổi (pulmonary emboli), phổi ứ nước (pulmonary edema), khí trong màng phổi (pneumothorax) là những t́nh trạng cũng làm tắc phổi kinh niên trở nặng. Cho nên, khi người tắc phổi kinh niên đột nhiên trở nặng, khó thở quá, phải vào nhà thương, bác sĩ sẽ cho chụp phim ngực “chest X-ray” để xem người bệnh có sưng phổi, hoặc máu đông bắn lên phổi, phổi ứ nước, khí trong màng phổi.

Những lúc bệnh trở nặng, các ống phổi thêm hẹp tắc, không đưa đủ không khí vào phổi. Trong không khí có dưỡng khí (oxygen), được phổi hấp thụ, rồi đưa vào máu. Khi cơn bệnh trở nặng, cơ chế hấp thụ dưỡng khí trong phổi cũng thêm xáo trộn. Hậu quả đưa đến là trong máu thiếu dưỡng khí. Máu thiếu dưỡng khí, sẽ không cung ứng đủ dưỡng khí, một nhu cầu sống c̣n, đến các cơ quan.

Sự điều trị có mục đích đưa thêm được dưỡng khí vào máu, giúp người bệnh khạc bớt đàm nhớt, làm các ống phổi bớt hẹp tắc, tăng cường sức mạnh cùng sức chịu đựng của các bắp thịt dùng trong việc hô hấp. Sự điều trị cũng nhằm vào việc chữa những nguyên nhân khiến t́nh trạng tắc phổi kinh niên trở nặng (như nhiễm trùng, máu đông bắng lên phổi,...), chữa những xáo trộn điện giải, nếu có (electrolyte abnormalities), đồng thời, ngăn ngừa các biến chứng gây do tắc phổi kinh niên trở nặng.

Những thuốc cần dùng để đạt những mục đích kể trên:

1-                Thuốc dăn ống phổi (bronchodilators):

Các thuốc làm dăn ống phổi dùng dưới nhiều dạng: uống, bơm xịt, chích,... Trong cơn nguy cấp, khi bệnh trở năạg, thuốc dạng bơm xịt tốt nhất, tác dụng nhanh, ít gây phản ứng. Các thuốc dăn ống phổi dạng bơm xịt hay được dùng: Proventil, Ventolin, Albuterol, Alupent,...

Biết sử dụng thuốc bơm xịt đúng cách, nếu không, thuốc vào đến miệng rồi thuốc lại ra. Thêm một dụng cụ gọi là “spacer device” gắn vào chai thuốc bơm xịt, giúp ta dùng được dễ dàng hơn. Các vị cao niên, quá yếu do bệnh nặng, hoặc không biết cách sử dụng chai thuốc bơm xịt, có thể dùng một máy bơm thuốc gọi là “nebulizer”. Thuốc pha chế sẵn, đổ vào “ nebulizer”, và khi dùng, máy sẽ bơm hơi thuốc lên để người bịnh hít thuốc vào phổi.

2-Thuốc bơm xịt loại anticholinergic:

Trong những trường hợp viêm ống phổi kinh niên (chronic bronchitis), thuốc bơm xịt loại “anticholinergic” như Atrovent được xem là hữu hiệu ngang với các thuốc bơm xịt làm dăn ống phổi vừa kể trên.

Thuốc Atrovent dùng ít gây phản ứng. Trong các trường hợp bệnh nặng, bác sĩ có thể dùng cả thuốc dăn ống phổi kể ở phần trên, phối hợp với Atrovent cũng vẫn được. Có tài liệu cho rằng việc dùng thuốc chung như vậy có lẽ cũng không làm tăng hiệu quả việc điều trị là bao nhiêu.

3-Thuốc Steroid:

Những trường hợp bệnh trở nặng, thuốc uống Steroid như Prednisone giúp phổi làm việc nhiều hiệu quả hơn, khiến bệnh thuyên giảm thấy rơ. Prednisone dùng với lượng 30-60mg/ngày, trong 7-10 ngày.

Những trường hợp nặng cần chữa trong bệnh viện, đầu tiên thuốc Steroid truyền tĩnh mạch có tên Solu-Medrol được dùng với lượng 60-125mg mỗi 6-12 tiếng, trong ṿng vài ngày. Khi cơn bệnh giảm dần, Solu-Medrol thay bằng Prednisone, 30-60mg/ngày, rồi giảm lượng dần, và ngưng sau một thời gian ngắn.

4-Trụ sinh:

Với những trường hợp tắc phổi kinh niên trở nặng quá, khạc ra nhiều đàm đặc, vàng hoặc xanh như mủ, bác sĩ thường dùng thêm trụ sinh để diệt vi trùng, khiến đàm giảm đi và ngựi bệnh dễ thở hơn. Trước khi dùng trụ sinh, nên cho cấy trùng đàm, để xem vi trùng nào gây bệnh để chữa trị được hữu hiệu.

Bệnh trở nặng hơn b́nh thường, nhưng không đến nỗi quá, người bệnh không khạc đàm nhiều, đàm không vàng hoặc xanh, không cần đến trụ sinh.

Những trường hợp cần vào bệnh viện để điều tri:

·        Khi chữa trị ở nhà không thuyên giảm.

·        Khi người bệnh quá yếu, không c̣n đủ sức đi từ pḥng này qua pḥng khác được ở trong nhà

·         Khi người bệnh không ăn, không ngủ v́ khó thở, hoặc có kèm theo những bệnh quan trọng khác.

·        Khi các triệu chứng bệnh cứ nặng dần, và càng nặng thêm.

·          Khi người bệnh lơ mơ, không c̣n tỉnh táo.

·           Đo nồng độ dưỡng khí trong máu tồi tệ quá.

Người bệnh được điều trị trong bệnh viện để theo dơi bằng “arterial blood gas” (lấy máu trong động mạch để theo dơi nồng độ dưỡng khí trong máu. Người bệnh được cho thở dưỡng khí để giữ nồng độ trong máu ít nhất trong khoảng 60-70%.

Người bệnh được chữa ngay với các thuốc làm dăn ống phổi cứ mỗi 1-4 tiếng (Proventil, Ventolin, Alupent,...), thuốc bơm xịt loại anticholinergic (như Atrovent), thuốc Steroid ( thuốc truyền tĩnh mạch Solu-Medrol trong vài ngày, rồi đổi sang thuốc uống Prednisone). Trụ sinh cũng được dùng cho người bệnh khạc ra nhiều đàm đặc có màu. Nếu chụp phim ngực thấy có sưng phổi, nên cho cấy trùng đàm, xem vi trùng nào gây bệnh để dùng trụ sinh cho đúng.

Thỉnh thoảng có trường hợp bệnh trở nặng quá gây suy hô hấp, người bệnh cần dùng đến máy giúp thở.

Bệnh tắc phổi kinh niên (chronic obstructive pulmonary disease, gọi tắt là COPD), khác với bệnh suyễn (asthma), khi trở nặng có thể rất nặng, dễ đưa đến suy hô hấp.

Y khoa ở Mỹ rất chú trọng đến việc hướng dẫn người bệnh hiểu biết về vấn đề sức khỏe của ḿnh để người bệnh sẽ giúp bác sĩ chữa trị được hữu hiệu hơn.

 

 

 

 

 

 


Bác sĩ LÊ ÁNH
7/2017

 

 

 

 

 

 

Trang Thơ và Truyện của Lê Ánh              |                 www.ninh-hoa.com