Y Học -Sức Khỏe
 

Bác Sĩ
Nguyễn Vĩ Liệt


Ung Thư Vú  
Táo Bón Ở Người
    Cao Niên
  
 
Đời Sống Lành
    Mạnh

 
Cúm Ở Người Và
    Cúm Gia Cầm

 Viêm Và Loét Dạ
    Dày Do Vi Khuẩn
    HELICOBACTER
    PYLORI

 Dịch Tả (Cholera)
 
Bệnh Tiểu Đường
    Loại 2

 
Đại Dịch Cúm Heo
 Bảng Kiểm Tra
    Hoạch Định Về
    Đại Dịch Cúm Heo

 
Những Đợt Đại
    Dịch Cúm Heo

 
Đại Dịch Cúm Heo
    Hay Đại Chủng
    Ngừa Cúm Gà

 Những Căn Bản Về
    Di Truyền Học

 Viêm Gan Siêu Vi B
 Bệnh Tay, Chân,
    Miệng

 Sự Tiến Hóa Của
    Siêu Vi Cúm Gây
    Hại Và Bảo Vệ Loài
    Người

 Sự Lan Truyền Và
    Cơ Chế Gây a Bệnh
    Lao

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



  

  

 www.ninh-hoa.com

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

  
 

Bác Sĩ NGUYỄN VĨ LIỆT
Người xóm Cầu Gỗ, Ninh Ḥa
Phụ Trách

 

Những Đt Đi Dch CÚM HEO
WAVES OF PANDEMIC SWINE ORIGIN INFLUENZA VIRUS)

_____________________________

Cúm heo A/California/04/2009 (H1N1) gây đại dịch cho toàn thế giới khởi phát từ Mexico nhưng được cấy giải mă những đặc tính di truyền của nó đầu tiên từ một đứa trẻ 10 tuổi tại California, Mỹ vào 1/4/2009 nên có tên như trên.  Người ta phát hiện siêu vi cúm mới này có sự tái sắp xếp (reassortment) vào tháng 3 năm 2009 và chúng tấn công mạnh tại Mexico vào tháng 4 năm 2009.  Đến tháng 6 năm 2009, Tổ Chức Y tế Quốc Tế (WHO) đă tuyên bố đại dịch.  Một vận tốc tấn công nhanh chưa từng thấy trong lịch sử đại dịch cúm mà chúng ta biết được từ xưa đến nay.  Phân tích chuỗi di truyền cũng cho rằng 6 khúc di truyền (PB2, PB1, PA, HA, NP, và NS1) của những siêu vi H1N1 có thể đến từ những siêu vi cúm heo H1N2 lưu hành ở Mỹ từ 1999 đến 2001 và 2 khúc nhân di truyền (NA và M1) có lẽ bắt nguồn từ những cúm heo H1N1 lưu hành ở Âu Châu từ năm 1985-1998.  Những câu hỏi quan trọng là khi nào, nơi nào, bằng cách nào những siêu vi cúm heo lưu hành ở Mỹ cách đây 8 năm được phối hợp với những siêu vi cúm heo lưu hành ở Âu Châu cách đây 11 năm và đă đột biến để biến thành những siêu vi H1N1 tái sắp xếp hiện nay?  Những biến cố này đă thành lập rằng đại dịch cúm trong tương lai có thể có tiềm năng đến từ những siêu vi tái sắp xếp bắt nguồn từ cầm điểu, động vật, hay người trong những vùng khác nhau trên thế giới.

 

 

PB2

PB1

PA

HA

NP

NA

M1

NS1

A/California/07/2009 (H1N1)

100

99

100

99

99

100

100

100

A/California/06/2009 (H1N1)

99

99

99

99

99

99

100

99

A/Mexico/InDRE4487/2009(H1N1)

99

99

99

99

100

99

100

100

A/Canada-ON/RV1527/2009(H1N1)

99

99

99

99

99

99

99

99

A/New York/18/2009 (H1N1)

99

99

99

99

99

99

99

99

A/Texas/04/2009 (H1N1)

99

99

99

99

100

99

99

99

A/Swine/Indiana/P12439/00 (H1N2)

96

96

96

95

97

..

88

95

A/Swine/North Carolina/93523/01 (H1N2)

96

96

96

94

96

..

87

96

A/Swine/Illinois/100085A/01 (H1N2)

96

96

96

95

96

..

87

95

A/Swine/Illinois/100084/01 (H1N2)

96

96

96

95

96

..

87

96

A/Swine/Indiana/9K035/99 (H1N2)

96

96

95

95

96

..

88

96

A/Swine/Minnesota/55551/00 (H1N2)

96

96

96

91

96

..

87

96

A/Swine/Ohio/891/01 (H1N2)

96

96

95

95

97

..

87

96

A/Swine/North Carolina/98225/01 (H1N2)

96

96

96

91

95

..

87

96

A/Swine/Minnesota/593/99 (H3N2)

96

96

96

..

96

..

88

96

A/Swine/Iowa/569/99 (H3N2)

96

96

96

..

97

..

88

95

A/Swine/Iowa/533/99 (H3N2)

96

96

96

..

97

..

88

96

A/Swine/Nebraska/209/98 (H3N2)

96

96

96

..

95

..

88

96

A/Swine/Korea/CY05/2007 (H3N2)

96

96

96

..

97

..

88

91

A/Swine/Spain/WVL6/1991 (H1N1)

..

..

..

..

..

94

96

..

A/Swine/England/WVL10/1993 (H1N1)

..

..

..

..

..

94

97

..

A/Swine/England/WVL16/1998 (H1N1)

..

..

..

..

..

93

96

..

A/Swine/Germany/Vi5698/95 (H1N1)

..

..

..

..

..

94

96

..

A/Swine/Belgium/1/1998 (H1N1)

..

..

..

..

..

93

96

..

A/Swine/France/WVL4/1985 (H1N1)

..

..

..

..

..

93

95

..

A/Turkey/France/87075/87 (H1N1)

..

..

..

..

..

92

94

..

     Những siêu vi được liệt kê trên đây từ Mỹ và Canada cũng đă gây những trận bùng phát ở Bắc Mỹ nên những người trên 30 tuổi phần nào có những kháng thể chống lại những nhân di truyền của siêu vi cúm heo mới này.  Do đó, những người lớn tuổi ít khi bị những triệu chứng sốt cao.  Nhưng đây là một siêu vi cúm có nhiều tái sắp xếp (reassortments) cho nên mọi người đều có thể bị nó tấn công nhẹ hay nặng tùy sức đề kháng.  Những trẻ sơ sinh nếu được mẹ cho bú, trong 6 tháng đầu vẩn có những kháng thể nhận trực tiếp từ người mẹ, phần nào chống lại siêu vi cúm heo mới này.  Do đó, trẻ sơ sinh được mẹ cho bú sẽ có thể bệnh nhẹ nếu mẹ của chúng có một phần kháng thể chống lại cúm heo này.  Những trẻ con cho đến tuổi thành niên và những người lớn c̣n trẻ (dưới 20 tuổi) là mục tiêu tấn công mạnh và có thể gây tử vong bởi cúm heo này.  Ngoài ra những người lớn tuổi dù có phần nào kháng thể chống lại loại cúm heo mới này nhưng cơ thể họ có những bệnh tật đặc biệt làm cho cơ thể suy yếu như bệnh hen suyễn (asthma), viêm cuống phổi mản tính (COPD, chronic bronchitis), bệnh tim mạch (Myocardial infarction, congestive heart failure…), bệnh tiểu đường loại I và 2, bệnh viêm gan do siêu vi B và C, những bệnh ung thư, những bệnh gây bởi sự tự nhiễm (autoimmune), bệnh AIDS… cũng dể bị tử vong khi bị cúm heo mới này tấn công.  Đa số những tử vong do nhiễm trùng thứ cấp ở phổi.  Những vi khuẩn mà người bệnh bị nhiễm vào phổi thường là Pneumococcus pneumonia, Hemophilus influenza, và Staphylococcus aureus. 

 


 

     Đặc biệt loại Staphylococci gây bệnh viêm phổi rất khó điều trị.  Lư do mà những người bị cúm dể bị nhiểm trùng thứ cấp là do siêu vi cúm tấn công và làm những tế bào bạch cầu đa nhân (polynuclear white blood cells) bị tê liệt không c̣n khả năng tiêu diệt vi khuẩn xâm nhập cơ thể, đặc biệt là đường hô hấp.  Đặc tính của cúm heo mới này bắt nguồn từ cúm gia cầm (avian influenza) và cúm heo (swine influenza) từ Bắc Mỹ và Âu-Á Châu nên chúng có những di truyền của phân tử HA có thể bám dính và cắt sialic acid trên màng tế bào ở bất cứ nơi đâu trong cơ thể con người.  Cho nên chúng có tên là siêu vi cúm từ heo (swine origin influenza virus).  Đặc biệt ở siêu vi cúm gia cầm (avian influenza virus) có phân tử (gai) HA bám dính vào bộ căm nhận α2→3 sialic acid của màng tế bào biểu mô ở phần dưới đường hô hấp con người (phổi).  Siêu vi cúm heo mới này có những di truyền vừa đề cập nên chúng tấn công thẳng vào phổi dể dàng hơn các loại cúm ở người chỉ bám vào bộ phận căm nhận α2→6 sialic acid ở đường hô hấp trên thôi.  Viêm phổi ở những người bị siêu vi cúm heo mới này là viêm phổi do siêu vi và viêm phổi do nhiễm trùng thứ cấp.  Đây là lư do tại sao những người bị siêu vi cúm heo này gây tử vong khi bệnh nhân bị viêm phổi.  Mặc dù nó mang tên thông thường là cúm heo nhưng nó không phải lây nhiễm từ heo mà đây là con siêu vi cúm ở người tái sắp xếp với các loài siêu vi cúm heo nên chúng ta không sợ khi ăn thịt heo.  Có lẻ loài heo sợ con người th́ đúng hơn.  Ở Alberta, Canada, có một người bệnh cúm heo mới này, mang từ Mexico về và đă lây cho một trại chăn nuôi heo tại đây.

 

Tổng Tấn Công Đợt I:

 

     Ngay sau khi phát hiện dịch xăy ra dịch cúm H1N1 mới (novel/swine H1N1) ở Mexico vào đầu tháng 4 năm 2009, tôi đă theo dỏi bệnh nhân người Việt của tôi ở British Columbia.  Hầu hết những người trẻ dưới 20 tuổi hay mới từ Việt Nam đến (cũng trẻ dưới 30 tuổi) mới có triệu chứng sốt hay những triệu chứng cúm khác một cách rỏ ràng.  Tôi kiểm soát tất cả bệnh nhân ở các lứa tuổi cho thấy rất nhiều những người này có triệu chứng sốt (lấy nhiệt độ ở lổ tai) dưới 37,5 độ C với triệu chứng mệt mỏi và nghẹt mủi nhảy mủi mà họ cứ tưởng là bị dị ứng v́ năm nay thời tiết hơi lạ và hoa nở ở đây rất nhiều.  Điển h́nh là ngày tổ chức WHO tuyên bố đại dịch, tôi có 42 bệnh nhân trong ngày đó.  20 bệnh nhân có sốt nhẹ (dưới 37,5 độ C), 2 bệnh nhân có sốt cao hơn 38 độ C (1 có cúm swine H1N1 và 1 có cúm H3N2).  20 người bị sốt nhẹ đă khỏe sau khi uống Tamiflu ở liều thứ 2.  Tôi kết luận rằng 20 người này có cúm swine H1N1 v́ không có những cúm theo mùa có sốt rất nhẹ như vậy.  Theo sự phỏng tính của tôi, cứ 1 người có triệu chứng cúm rỏ rệt th́ có từ 10-100 người có triệu chứng sốt rất nhẹ (ngay cả người bệnh cũng không biết nếu tôi không kiễm soát nhiệt độ của họ.  Đây là một đặc tính cúm có khả năng gây đại dịch rất cao.  Điều này đă chứng minh chỉ trong ṿng 2 tháng được phát hiện Swine H1N1 đă gây ra đại dịch.  Tôi chợt nhớ đến đại dịch của Dịch tả thứ 7 do khuẩn tả O1 Eltor cũng có số người mang bệnh nhưng không phát bệnh so với người phát bệnh là 100/1. 

 

     Yếu tố mang bệnh mà không phát bệnh cao gây ra sự lây lan nhanh chưa từng có trong đại dịch cúm.  Chính phủ Mỹ và Canada cùng với các nhân viên y tế đă bó tay không ngăn cản nổi sự lây lan.  Chính phủ Canada đă đưa ra đề nghị với các bác sĩ tại Canada chỉ nên chửa bệnh bằng Tamiflu chứ không ngừa bệnh bằng thuốc này.  Tamiflu có thể dùng cho trẻ con từ 1 tuổi hay lớn hơn và cho những ngựi phụ nử mang thai.  Theo thống kê vào năm 1918, một loại siêu vi cúm A/H1N1 1918 đă tấn công nhiều người đàn bà mang thai.  Kết quả là đă có nhiều hư thai và sinh non xăy ra.  Những đứa trẻ sinh non vào dạo ấy rất èo ọt và khó nuôi.  Cho nên, chúng ta đừng e dè khi điều trị người đàn bà có thai với bệnh cúm heo mới này bằng Tamiflu.  Tôi đă điều trị một phụ nử Canadian gốc Việt bị cúm heo mới này với Tamiflu khi chính phủ Canada chưa ra đề nghị trị liệu phụ nử có thai với Tamiflu và kết quả là cô ta gần ngày sanh nở chưa có triệu chứng ǵ lạ.  Trong đợt tổng tấn công đầu tiên, có 3 bệnh nhân có triệu chứng sốt đi sốt lại 2-3 tháng.  2 người vừa từ Việt Nam về và 1 người không có đi du lịch nhưng tiếp xúc với 1 người có bệnh cúm heo từ Việt Nam mới về.  Thử máu (CBC) cho thấy có tăng monocytes, các bệnh viện cho là bệnh mononucleosis (kissing disease) nhưng thử nghiệm để xác nhận monospot lại âm tính.  Tôi đă thử nghiệm tất cả những cơ quan cho nhiễm trùng đều âm tính, tôi chợt nhớ khi siêu vi cúm vào máu sẽ kích động bộ căm nhận TLR-7 và TLR-8 đều cho ra sự tăng monocytes.  Điều này cho tôi biết là có thể siêu vi cúm đă vào máu và gây ra sự tăng monocytes chứ không phải do siêu vi gây bệnh mononucleosis. 

 

     Tôi đă cho 3 bệnh nhân trên uống thử Tamiflu, và kết quả là sốt giăm ngay trong 5 ngày uống thuốc và không trở lại nửa nhưng 3 bệnh nhân này vẩn bị mệt mỏi kéo dài trong nhiều tháng.  Điều này xác nhận cho tôi là siêu vi cúm heo mới này có lẻ có phân tử HA với một nhánh dăy di truyền polybasic (polybasic sequence) như những cúm heo và cúm gia cầm khác.  Khi các siêu vi cúm có nhánh polybasic trên phân tử HA, chúng có thể di chuyễn trong cơ thể động vật cũng như con người một cách tự do.  Một bằng chứng là loại siêu vi cúm heo mới này có thể tạo ra tiêu chảy.  Điều này có nghỉa là nó đă đi vào hệ tiêu hóa được.  Ở Mỹ, các bác sĩ đă thử nghiệm thuốc permiavir và Tamiflu chích vào trong tỉnh mạch đă thành công trong những trường hợp cúm heo mới này đă vào trong máu.  trong 3 trường hợp của tôi điều trị, bệnh nhân phải chịu mệt mỏi một thời gian nửa v́ chúng tôi ở Canada chưa có chỉ định dùng những thuốc này vào tỉnh mạch nhưng bệnh nhân vẩn sinh hoạt b́nh thường và đi làm việc trở lại.  Điều này đă xác nhận rằng tầm quan trọng của cúm heo mới này phải được để ư đến trong 2 trường hợp: viêm phổi và siêu vi vào trong máu.

 

Tổng Tấn Công Đợt 2:

     Đợt tấn công 1 ở Vancouver, Canada kéo dài từ tháng 4, 2009 cho đến cuối tháng 7, 2009 (12 tuần).  Tháng 8, 2009, tôi tương đối thong thả hơn và đi dự đám cưới của con anh Thành Và anh Lai cùng với họp mặt các đồng hương tại California.  V́ xa hương trên 41 năm, nên tôi ít có những căm giác mạnh như mọi người ngoại trừ gặp lại những người tôi thường gặp trước đây.  Nhưng một điều mà tôi căm thấy rất vui khi gặp lại những người tôi thường quen biết.  Tôi đang phân vân có nên viết bài “kẻ xa lạ trên quê hương hay không’  nhưng không thể nào có thời giờ cho việc văn chương này.  Có một điều là sau khi về đến Canada, tôi lại phải chống đở đợt tổng tấn công của siêu vi cúm heo mới này từ đầu tháng 9 đến bây giờ.  Lần này, tôi và vợ tôi (RN) đă chống đở một cách mảnh liệt.  Về đến nhà, chúng tôi lo ăn uống xong một chập là ngủ lấy sức v́ mỗi ngày số bệnh nhân trên 50 người mỗi ngày.  Trong đợt tổng tấn công mới này, số người có sốt cao trên 38 độ C lên cao hơn đợt 1 rất nhiều, và đại đa số ở những người c̣n trẻ và trẻ con dưới 20 tuổi.  Rất may, đại đa số bệnh nhân trẻ con đến trong ṿng 2 ngày đầu của nóng sốt nên việc trị liệu tương đối không phức tạp.  Phần lớn trẻ con bị nhiễm trùng thứ cấp của đường hô hấp trên (mủi và họng) vài trường hợp bị viêm cuống phổi với đa số có bệnh suyễn.  Tôi điều trị những trẻ không có nhiễm trùng thứ cấp thành 2 nhóm. 

 

1/ Một nhóm tôi điều trị với Tamiflu theo :

Trẻ con trên 12 tháng tuổi: uống 5 ngày Tamiflu

    Dưới 15 kg cân nặng cơ thể: 30 mg Tamiflu, 2 lần mỗi ngày

    Từ trên 15 kg đến 25 kg cân nặng cơ thể: 45 mg Tamiflu, 2 lần mỗi ngày

    Từ trên 25 kg đến 40 kg cân nặng cơ thể: 60 mg Tamiflu, 2 lần mỗi ngày

    Trên 40 kg cân nặng cơ thể: 75 mg Tamiflu, 2 lần mỗi ngày.

 

2/ Nhóm thứ 2 tôi điều trị với Tamiflu như trên và cefixim (Suprax).  Sở dỉ tôi chọn cefixim là vi trẻ chỉ uống 1 liều mỗi ngày với 8 mg/kg cân nặng của cơ thể và nó trị được cả pneumococci và H. influenza.  Ngoài ra, loại trụ sinh này ít bị đề kháng bởi vi khuẩn tại Vancouver, Canada.

Kết quả là những trẻ không uống trụ sinh ngay từ đầu đều được cha mẹ đem trở lại pḥng mạch của tôi.  Cuối cùng tất cả trẻ bị cúm heo mới này đều uống cả Tamiflu lẩn trụ sinh.  Sau đó, tôi cho tất cả các trẻ con đến trị bệnh cúm đều uống cả 2 loại thuốc này,  Đến nay, chúng tôi may mắn là chưa có trẻ nào bị viêm phổi hay tử vong.  Tôi áp dụng điều này cho những người lớn có những bệnh là yếu hệ thống pḥng thủ cơ thể và mọi người được b́nh phục nhanh chóng. 

 

Trong lần tổng tấn công của đại dịch siêu vi cúm từ heo mới này, tôi tạm rút ra những kinh nghiệm qúi giá sau đây:

    Nếu mọi người bị sốt nhất là ở trẻ con nên đến gắp bác sĩ ngay ngày đầu tiên.  Trể nhất là ngày thứ 2.

    Chúng ta nên kiểm soát nhiệt độ mỗi ngày những người trong gia đ́nh nhất là những người dưới 20 tuổi để phát hiện sớm.  Những trường hợp tử vong thường những trẻ dưới 20 tuổi và bị sốt hơn 2 ngày mà không để ư đến cho đến khi bị viêm phổi.  Tamiflu trị và pḥng (nếu đă có bệnh) viêm phổi do siêu vi cúm rất hiệu quả.  Trụ sinh (kháng sinh) loại chống được nhiều vi khuẩn để ngăn chận sự xâm nhập của vi khuẩn vào phổi.  Như tôi đă thảo luận trên, siêu vi cúm làm những bạch cầu có nhiệm vụ diệt vi khuẩn bị tê liệt.

    Nếu bác sĩ mà khám bệnh trẻ con không hỏi cặn kẽ bệnh sử và không lấy nhiệt độ trước khi kết luận bệnh cúm, chúng ta nên đi hỏi ư kiến thêm một bác sĩ nào làm đầy đủ nhiệm vụ: hỏi bệnh sử cặn kẻ, lấy nhiệt độ, và khám lâm sàng kỷ lưởng.  Từ nay cho đến kỳ tổng tấn công thứ 3 và ? thứ 4, siêu vi cúm heo mới này có thể biến tính và dữ hơn những đợt trước như tôi đă so sánh trong 2 kỳ tổng tấn công.

    Mặc dù chúng ta đă bị bệnh cúm dù được xác định hay chưa vẩn nên chích ngừa hay pḥng ngừa qua mủi (chỉ có ở Mỹ).  Cơ thể của ta được chính xác làm tăng những kháng thể chống lại siêu vi cúm này hay làm tăng thêm khả năng sản xuất ra những kháng thể này.

    Nhiều người hỏi tôi: thuốc chủng ngừa cúm heo có nguy hiểm không.  Tôi trả lời rằng tôi là một trong những người đầu tiên đă chủng ngừa với thuốc chủng này.  nếu tôi c̣n xem bệnh qúi vị tức nhiên là nó an toàn.  Ngoài ra, phương pháp làm thuốc chủng hiện nay khác với phương pháp làm thuốc chủng năm 1976 khi có nhiều bệnh nhân bị chứng Guillaume Barré (liệt nửa người và b́nh phục hoàn toàn trong vài tháng) khi chủng ngừa cúm heo thời đó.  Hiện nay, thuốc chủng ngừa cúm heo làm theo phương pháp của thuốc chủng ngừa cúm theo mùa hàng năm.  Có nghỉa là thuốc chủng ngừa này đă được xữ dụng do nhiều tỉ người trên thế giới rồi.  Hiện nay, người ta bắt những con siêu vi cúm và phân tích di truyền của chúng toàn diện.  Sau đó, họ tổng hợp hay dùng thuốc tách rời phân tử HA của siêu vi cúm ra hay tái tổng hợp phân tử này.  Tiếp theo, họ dùng con siêu vi cúm mà họ đă tái tổng hợp từ trước không có những phần gây ra bệnh có tính mọc trong phôi trứng nhanh.  Tiếp đến họ trộn những phân tử HA gặt hái được hay tổng hợp được với siêu vi thuốc chủng trong thuốc chủng dùng để chích.  Trong trường hợp thuốc chủng qua mủi, họ dùng những kỷ thuật nghịch đảo di truyền (reverse genetic technology) để đọc mật mă những siêu vi cúm này rồi tổng hợp lại siêu vi cúm và loại bỏ những phần mang độc tính (PA, PB1, PB2, NS1) và làm thuốc chủng xịt vào mủi.  loại thuốc chủng này tạo ra được sức đề kháng cho cơ thể gần giống với một sự nhiễm siêu vi cúm một cách tự nhiên (bệnh cúm).  Sự đề kháng lên đến trên 20 năm và có nhiều phản ứng chéo với các loại phụ của siêu vi cúm khác nhiều hơn là loại chích vào bắp thịt.

    Có những thuốc chủng pha với chất thêm vào (adjuvant) gây phản ứng phụ như sốt nhẹ hay sưng đau nhẹ tại chổ chích thuốc nhưng Tylenol hay Advil, Motrin.. đều giúp qua những biến chứng một cách nhẹ nhàng.  V́ thuốc thêm vào kích thích hệ thống miển nhiễm cơ thể mạnh hơn nên một nửa liều thuốc chủng cộng với chất thêm vào có thể tạo miển nhiễm tốt như nguyên liều thuốc chủng.  Do đó giúp sự sản xuất dể đáp ứng với nhu cầu quá lớn hiện nay. 

    Chất thủy ngân (thimerosal) được bỏ trong thuốc chủng để giết những vi khuẩn cũng như vi nấm mọc trong lúc làm và dự trữ thuốc chủng.  Viện bào chế thuốc sẽ lọc ra đến mức độ ít hơn là lượng mỗi ngày vào cơ thể chúng ta qua thực phẩm trước khi đua ra thị trường tiêu dùng.  Cho nên điều này không gây thiệt hại cho cơ thể chúng ta dù là ở trẻ sơ sinh.  Với số lượng thủy ngân quá ít không thể làm hại được con cháu chúng ta nhưng cúm heo mới này có thể làm mất đi con cháu chúng ta.  Hăy chủng ngừa.

           Tôi hy vọng với những kiến thức này giúp cho mọi người trải qua cơn đại dịch cúm nguy hiểm này một cách nhẹ nhàng và không đau khổ.

 

 

References:

 

1.   Influenza Viruses Including Avian Influenza and Swine Influenza

       JOHN J. TREANOR

       Mandell: Mandell, Douglas, and Bennett's Principles and Practice of Infectious Diseases, 7th ed.

       Copyright © 2009 Churchill Livingstone

      Influenza in immunosuppressed populations: a review of infection frequency, morbidity, mortality, and vaccine responses

2.     The Lancet Infectious Diseases - Volume 9, Issue 8 (August 2009)  

        Ken M Kunisaki, MD
         Edward N Janoff, MD

3.      Inactivated influenza vaccines

            Carolyn B. Bridges
            Jacqueline M. Katz
            Roland A. Levandowski
            Nancy J. Cox

            Plotkin: Vaccines, 5th ed.

            Copyright © 2008 Saunders

4.  Immunologic adjuvants

            Frederick R. Vogel
            Stanley L. Hem

            Plotkin: Vaccines, 5th ed.

            Copyright © 2008 Saunders

5.   Influenza vaccine-live

            Robert B. Belshe
            Robert Walker
            Jeffrey J. Stoddard
            George Kemble
            Husein F. Maassab
            Paul M. Mendelman

            Plotkin: Vaccines, 5th ed.

            Copyright © 2008 Saunders

6.   Vaccine immunology

            Claire-Anne Siegrist

            Plotkin: Vaccines, 5th ed.

            Copyright © 2008 Saunders

7.   Possible origin of current influenza A H1N1 viruses

      The Lancet Infectious Diseases - Volume 9, Issue 8 (August 2009)  

            Hong Zhang
            Ling Chen

8.   Activity of the Oral Neuraminidase Inhibitor A-322278 against the Oseltamivir-Resistant H274Y (A/H1N1) Influenza Virus Mutant in Mice

    Mariana Baz, Yacine Abed, Benjamin Nehmé, and Guy Boivin*

     Research Center in Infectious Diseases, CHUQ-CHUL, and Laval University, Que´bec    City, Québec, Canada

     Received 23 September 2008/Returned for modification 15 October 2008/Accepted 12    November 2008

9.      Cross-Reactive Antibody Responses to the 2009 Pandemic H1N1 Influenza Virus

            Kathy Hancock, Ph.D., Vic Veguilla, M.P.H., Xiuhua Lu, M.D., Weimin Zhong, Ph.D., Eboneé N. Butler, M.P.H., Hong Sun, M.D., Feng Liu, M.D., Ph.D., Libo Dong, M.D., Ph.D., Joshua R. DeVos, M.P.H., Paul M. Gargiullo, Ph.D., T. Lynnette Brammer,  M.P.H., Nancy J. Cox, Ph.D., Terrence M. Tumpey, Ph.D., and Jacqueline M. Katz,     Ph.D.

            Published at www.nejm.org September 10, 2009 (10.1056/NEJMoa0906453)

10.  Different evolutionary trajectories of European avian-like and classical swine H1N1 influenza A viruses

        Eleca J. Dunham1, Vivien G. Dugan1, Emilee K. Kaser1, Sarah E. Perkins2,

        Ian H. Brown3, Edward C. Holmes2,4, and Jeffery K. Taubenberger1,*

        1 Laboratory of Infectious Diseases, National Institute of Allergy and Infectious Diseases,

          National Institutes of Health, Bethesda, MD, USA

        2 Center for Infectious Disease Dynamics, Department of Biology, The Pennsylvania         State

            University, University Park, PA, USA

       3 Virology Department, Veterinary Laboratories Agency - Weybridge, Addlestone,  Surrey, UK

         4  Fogarty International Center, National Institutes of Health, Bethesda, MD, USA

            *Address correspondence to:

           Jeffery K. Taubenberger, M.D., Ph.D.,

           Laboratory of Infectious Diseases, National Institute of Allergy and Infectious Diseases

           National Institutes of Health, 33 North Drive, Room 3E19A.2, MSC 3203

           Bethesda, MD 20892-3203 USA

           Tel. 1-301-443-5960; Fax. 1-301-480-5722

           email: taubenbergerj@niaid.nih.gov

  

 

 

Viết xong ngày 1 tháng 1, năm 2009

Bác Sĩ Nguyễn Vĩ Liệt

 



                                                                                                              

 

     

 

                                                   www.ninh-hoa.com