Những siêu vi được liệt kê trên đây từ Mỹ và Canada
cũng đă gây những trận bùng phát ở Bắc Mỹ nên những người trên 30 tuổi phần
nào có những kháng thể chống lại những nhân di truyền của siêu vi cúm heo
mới này. Do đó, những người lớn tuổi ít khi bị những triệu chứng sốt cao.
Nhưng đây là một siêu vi cúm có nhiều tái sắp xếp (reassortments) cho nên
mọi người đều có thể bị nó tấn công nhẹ hay nặng tùy sức đề kháng. Những
trẻ sơ sinh nếu được mẹ cho bú, trong 6 tháng đầu vẩn có những kháng thể
nhận trực tiếp từ người mẹ, phần nào chống lại siêu vi cúm heo mới này. Do
đó, trẻ sơ sinh được mẹ cho bú sẽ có thể bệnh nhẹ nếu mẹ của chúng có một
phần kháng thể chống lại cúm heo này. Những trẻ con cho đến tuổi thành niên
và những người lớn c̣n trẻ (dưới 20 tuổi) là mục tiêu tấn công mạnh và có
thể gây tử vong bởi cúm heo này. Ngoài ra những người lớn tuổi dù có phần
nào kháng thể chống lại loại cúm heo mới này nhưng cơ thể họ có những bệnh
tật đặc biệt làm cho cơ thể suy yếu như bệnh hen suyễn (asthma), viêm cuống
phổi mản tính (COPD, chronic bronchitis), bệnh tim mạch (Myocardial
infarction, congestive heart failure…), bệnh tiểu đường loại I và 2, bệnh
viêm gan do siêu vi B và C, những bệnh ung thư, những bệnh gây bởi sự tự
nhiễm (autoimmune), bệnh AIDS… cũng dể bị tử vong khi bị cúm heo mới này tấn
công. Đa số những tử vong do nhiễm trùng thứ cấp ở phổi. Những vi khuẩn mà
người bệnh bị nhiễm vào phổi thường là Pneumococcus pneumonia, Hemophilus
influenza, và Staphylococcus aureus.


Đặc
biệt loại Staphylococci gây bệnh viêm phổi rất khó điều trị. Lư do mà những
người bị cúm dể bị nhiểm trùng thứ cấp là do siêu vi cúm tấn công và làm
những tế bào bạch cầu đa nhân (polynuclear white blood cells) bị tê liệt
không c̣n khả năng tiêu diệt vi khuẩn xâm nhập cơ thể, đặc biệt là đường hô
hấp. Đặc tính của cúm heo mới này bắt nguồn từ cúm gia cầm (avian
influenza) và cúm heo (swine influenza) từ Bắc Mỹ và Âu-Á Châu nên chúng có
những di truyền của phân tử HA có thể bám dính và cắt sialic acid trên màng
tế bào ở bất cứ nơi đâu trong cơ thể con người. Cho nên chúng có tên là
siêu vi cúm từ heo (swine origin influenza virus). Đặc biệt ở siêu vi cúm
gia cầm (avian influenza virus) có phân tử (gai) HA bám dính vào bộ căm nhận
α2→3 sialic acid của màng tế bào biểu mô ở phần dưới đường hô hấp con người
(phổi). Siêu vi cúm heo mới này có những di truyền vừa đề cập nên chúng tấn
công thẳng vào phổi dể dàng hơn các loại cúm ở người chỉ bám vào bộ phận căm
nhận α2→6 sialic acid ở đường hô hấp trên thôi. Viêm phổi ở những người bị
siêu vi cúm heo mới này là viêm phổi do siêu vi và viêm phổi do nhiễm trùng
thứ cấp. Đây là lư do tại sao những người bị siêu vi cúm heo này gây tử
vong khi bệnh nhân bị viêm phổi. Mặc dù nó mang tên thông thường là cúm heo
nhưng nó không phải lây nhiễm từ heo mà đây là con siêu vi cúm ở người tái
sắp xếp với các loài siêu vi cúm heo nên chúng ta không sợ khi ăn thịt heo.
Có lẻ loài heo sợ con người th́ đúng hơn. Ở Alberta, Canada, có một người
bệnh cúm heo mới này, mang từ Mexico về và đă lây cho một trại chăn nuôi heo
tại đây.
Tổng Tấn Công
Đợt I:
Ngay sau khi phát hiện dịch xăy ra dịch cúm H1N1 mới
(novel/swine H1N1) ở Mexico vào đầu tháng 4 năm 2009, tôi đă theo dỏi bệnh
nhân người Việt của tôi ở British Columbia. Hầu hết những người trẻ dưới 20
tuổi hay mới từ Việt Nam đến (cũng trẻ dưới 30 tuổi) mới có triệu chứng sốt
hay những triệu chứng cúm khác một cách rỏ ràng. Tôi kiểm soát tất cả bệnh
nhân ở các lứa tuổi cho thấy rất nhiều những người này có triệu chứng sốt (lấy
nhiệt độ ở lổ tai) dưới 37,5 độ C với triệu chứng mệt mỏi và nghẹt mủi nhảy
mủi mà họ cứ tưởng là bị dị ứng v́ năm nay thời tiết hơi lạ và hoa nở ở đây
rất nhiều. Điển h́nh là ngày tổ chức WHO tuyên bố đại dịch, tôi có 42 bệnh
nhân trong ngày đó. 20 bệnh nhân có sốt nhẹ (dưới 37,5 độ C), 2 bệnh nhân
có sốt cao hơn 38 độ C (1 có cúm swine H1N1 và 1 có cúm H3N2). 20 người bị
sốt nhẹ đă khỏe sau khi uống Tamiflu ở liều thứ 2. Tôi kết luận rằng 20
người này có cúm swine H1N1 v́ không có những cúm theo mùa có sốt rất nhẹ
như vậy. Theo sự phỏng tính của tôi, cứ 1 người có triệu chứng cúm rỏ rệt
th́ có từ 10-100 người có triệu chứng sốt rất nhẹ (ngay cả người bệnh cũng
không biết nếu tôi không kiễm soát nhiệt độ của họ. Đây là một đặc tính cúm
có khả năng gây đại dịch rất cao. Điều này đă chứng minh chỉ trong ṿng 2
tháng được phát hiện Swine H1N1 đă gây ra đại dịch. Tôi chợt nhớ đến đại
dịch của Dịch tả thứ 7 do khuẩn tả O1 Eltor cũng có số người mang bệnh nhưng
không phát bệnh so với người phát bệnh là 100/1.
Yếu tố mang bệnh mà không phát bệnh cao gây ra sự lây
lan nhanh chưa từng có trong đại dịch cúm. Chính phủ Mỹ và Canada cùng với
các nhân viên y tế đă bó tay không ngăn cản nổi sự lây lan. Chính phủ
Canada đă đưa ra đề nghị với các bác sĩ tại Canada chỉ nên chửa bệnh bằng
Tamiflu chứ không ngừa bệnh bằng thuốc này. Tamiflu có thể dùng cho trẻ con
từ 1 tuổi hay lớn hơn và cho những ngựi phụ nử mang thai. Theo thống kê
vào năm 1918, một loại siêu vi cúm A/H1N1 1918 đă tấn công nhiều người đàn
bà mang thai. Kết quả là đă có nhiều hư thai và sinh non xăy ra. Những đứa
trẻ sinh non vào dạo ấy rất èo ọt và khó nuôi. Cho nên, chúng ta đừng e dè
khi điều trị người đàn bà có thai với bệnh cúm heo mới này bằng Tamiflu.
Tôi đă điều trị một phụ nử Canadian gốc Việt bị cúm heo mới này với Tamiflu
khi chính phủ Canada chưa ra đề nghị trị liệu phụ nử có thai với Tamiflu và
kết quả là cô ta gần ngày sanh nở chưa có triệu chứng ǵ lạ. Trong đợt tổng
tấn công đầu tiên, có 3 bệnh nhân có triệu chứng sốt đi sốt lại 2-3 tháng.
2 người vừa từ Việt Nam về và 1 người không có đi du lịch nhưng tiếp xúc với
1 người có bệnh cúm heo từ Việt Nam mới về. Thử máu (CBC) cho thấy có tăng
monocytes, các bệnh viện cho là bệnh mononucleosis (kissing disease) nhưng
thử nghiệm để xác nhận monospot lại âm tính. Tôi đă thử nghiệm tất cả những
cơ quan cho nhiễm trùng đều âm tính, tôi chợt nhớ khi siêu vi cúm vào máu sẽ
kích động bộ căm nhận TLR-7 và TLR-8 đều cho ra sự tăng monocytes. Điều này
cho tôi biết là có thể siêu vi cúm đă vào máu và gây ra sự tăng monocytes
chứ không phải do siêu vi gây bệnh mononucleosis.
Tôi đă cho 3 bệnh nhân trên uống thử Tamiflu, và kết
quả là sốt giăm ngay trong 5 ngày uống thuốc và không trở lại nửa nhưng 3
bệnh nhân này vẩn bị mệt mỏi kéo dài trong nhiều tháng. Điều này xác nhận
cho tôi là siêu vi cúm heo mới này có lẻ có phân tử HA với một nhánh dăy di
truyền polybasic (polybasic sequence) như những cúm heo và cúm gia cầm khác.
Khi các siêu vi cúm có nhánh polybasic trên phân tử HA, chúng có thể di
chuyễn trong cơ thể động vật cũng như con người một cách tự do. Một bằng
chứng là loại siêu vi cúm heo mới này có thể tạo ra tiêu chảy. Điều này có
nghỉa là nó đă đi vào hệ tiêu hóa được. Ở Mỹ, các bác sĩ đă thử nghiệm
thuốc permiavir và Tamiflu chích vào trong tỉnh mạch đă thành công trong
những trường hợp cúm heo mới này đă vào trong máu. trong 3 trường hợp của
tôi điều trị, bệnh nhân phải chịu mệt mỏi một thời gian nửa v́ chúng tôi ở
Canada chưa có chỉ định dùng những thuốc này vào tỉnh mạch nhưng bệnh nhân
vẩn sinh hoạt b́nh thường và đi làm việc trở lại. Điều này đă xác nhận rằng
tầm quan trọng của cúm heo mới này phải được để ư đến trong 2 trường hợp:
viêm phổi và siêu vi vào trong máu.
Tổng Tấn Công
Đợt 2:
Đợt tấn
công 1 ở Vancouver, Canada kéo dài từ tháng 4, 2009 cho đến cuối tháng 7,
2009 (12 tuần). Tháng 8, 2009, tôi tương đối thong thả hơn và đi dự đám
cưới của con anh Thành Và anh Lai cùng với họp mặt các đồng hương tại
California. V́ xa hương trên 41 năm, nên tôi ít có những căm giác mạnh như
mọi người ngoại trừ gặp lại những người tôi thường gặp trước đây. Nhưng một
điều mà tôi căm thấy rất vui khi gặp lại những người tôi thường quen biết.
Tôi đang phân vân có nên viết bài “kẻ xa lạ trên quê hương hay không’ nhưng
không thể nào có thời giờ cho việc văn chương này. Có một điều là sau khi
về đến Canada, tôi lại phải chống đở đợt tổng tấn công của siêu vi cúm heo
mới này từ đầu tháng 9 đến bây giờ. Lần này, tôi và vợ tôi (RN) đă chống đở
một cách mảnh liệt. Về đến nhà, chúng tôi lo ăn uống xong một chập là ngủ
lấy sức v́ mỗi ngày số bệnh nhân trên 50 người mỗi ngày. Trong đợt tổng tấn
công mới này, số người có sốt cao trên 38 độ C lên cao hơn đợt 1 rất nhiều,
và đại đa số ở những người c̣n trẻ và trẻ con dưới 20 tuổi. Rất may, đại đa
số bệnh nhân trẻ con đến trong ṿng 2 ngày đầu của nóng sốt nên việc trị
liệu tương đối không phức tạp. Phần lớn trẻ con bị nhiễm trùng thứ cấp của
đường hô hấp trên (mủi và họng) vài trường hợp bị viêm cuống phổi với đa số
có bệnh suyễn. Tôi điều trị những trẻ không có nhiễm trùng thứ cấp thành 2
nhóm.
1/ Một
nhóm tôi điều trị với Tamiflu theo :
Trẻ con
trên 12 tháng tuổi: uống 5 ngày Tamiflu
Dưới 15
kg cân nặng cơ thể: 30 mg Tamiflu, 2 lần mỗi ngày
Từ trên
15 kg đến 25 kg cân nặng cơ thể: 45 mg Tamiflu, 2 lần mỗi ngày
Từ trên
25 kg đến 40 kg cân nặng cơ thể: 60 mg Tamiflu, 2 lần mỗi ngày
Trên 40
kg cân nặng cơ thể: 75 mg Tamiflu, 2 lần mỗi ngày.
2/ Nhóm
thứ 2 tôi điều trị với Tamiflu như trên và cefixim (Suprax). Sở dỉ tôi chọn
cefixim là vi trẻ chỉ uống 1 liều mỗi ngày với 8 mg/kg cân nặng của cơ thể
và nó trị được cả pneumococci và H. influenza. Ngoài ra, loại trụ sinh này
ít bị đề kháng bởi vi khuẩn tại Vancouver, Canada.
Kết quả
là những trẻ không uống trụ sinh ngay từ đầu đều được cha mẹ đem trở lại
pḥng mạch của tôi. Cuối cùng tất cả trẻ bị cúm heo mới này đều uống cả
Tamiflu lẩn trụ sinh. Sau đó, tôi cho tất cả các trẻ con đến trị bệnh cúm
đều uống cả 2 loại thuốc này, Đến nay, chúng tôi may mắn là chưa có trẻ nào
bị viêm phổi hay tử vong. Tôi áp dụng điều này cho những người lớn có những
bệnh là yếu hệ thống pḥng thủ cơ thể và mọi người được b́nh phục nhanh
chóng.
Trong lần tổng tấn công của đại dịch siêu vi cúm từ
heo mới này, tôi tạm rút ra những kinh nghiệm qúi giá sau đây:
Nếu mọi
người bị sốt nhất là ở trẻ con nên đến gắp bác sĩ ngay ngày đầu tiên. Trể
nhất là ngày thứ 2.
Chúng
ta nên kiểm soát nhiệt độ mỗi ngày những người trong gia đ́nh nhất là những
người dưới 20 tuổi để phát hiện sớm. Những trường hợp tử vong thường những
trẻ dưới 20 tuổi và bị sốt hơn 2 ngày mà không để ư đến cho đến khi bị viêm
phổi. Tamiflu trị và pḥng (nếu đă có bệnh) viêm phổi do siêu vi cúm rất
hiệu quả. Trụ sinh (kháng sinh) loại chống được nhiều vi khuẩn để ngăn chận
sự xâm nhập của vi khuẩn vào phổi. Như tôi đă thảo luận trên, siêu vi cúm
làm những bạch cầu có nhiệm vụ diệt vi khuẩn bị tê liệt.
Nếu bác
sĩ mà khám bệnh trẻ con không hỏi cặn kẽ bệnh sử và không lấy nhiệt độ trước
khi kết luận bệnh cúm, chúng ta nên đi hỏi ư kiến thêm một bác sĩ nào làm
đầy đủ nhiệm vụ: hỏi bệnh sử cặn kẻ, lấy nhiệt độ, và khám lâm sàng kỷ lưởng.
Từ nay cho đến kỳ tổng tấn công thứ 3 và ? thứ 4, siêu vi cúm heo mới này có
thể biến tính và dữ hơn những đợt trước như tôi đă so sánh trong 2 kỳ tổng
tấn công.
Mặc dù
chúng ta đă bị bệnh cúm dù được xác định hay chưa vẩn nên chích ngừa hay
pḥng ngừa qua mủi (chỉ có ở Mỹ). Cơ thể của ta được chính xác làm tăng
những kháng thể chống lại siêu vi cúm này hay làm tăng thêm khả năng sản
xuất ra những kháng thể này.
Nhiều
người hỏi tôi: thuốc chủng ngừa cúm heo có nguy hiểm không. Tôi trả lời
rằng tôi là một trong những người đầu tiên đă chủng ngừa với thuốc chủng này.
nếu tôi c̣n xem bệnh qúi vị tức nhiên là nó an toàn. Ngoài ra, phương pháp
làm thuốc chủng hiện nay khác với phương pháp làm thuốc chủng năm 1976 khi
có nhiều bệnh nhân bị chứng Guillaume Barré (liệt nửa người và b́nh phục
hoàn toàn trong vài tháng) khi chủng ngừa cúm heo thời đó. Hiện nay, thuốc
chủng ngừa cúm heo làm theo phương pháp của thuốc chủng ngừa cúm theo mùa
hàng năm. Có nghỉa là thuốc chủng ngừa này đă được xữ dụng do nhiều tỉ
người trên thế giới rồi. Hiện nay, người ta bắt những con siêu vi cúm và
phân tích di truyền của chúng toàn diện. Sau đó, họ tổng hợp hay dùng thuốc
tách rời phân tử HA của siêu vi cúm ra hay tái tổng hợp phân tử này. Tiếp
theo, họ dùng con siêu vi cúm mà họ đă tái tổng hợp từ trước không có những
phần gây ra bệnh có tính mọc trong phôi trứng nhanh. Tiếp đến họ trộn những
phân tử HA gặt hái được hay tổng hợp được với siêu vi thuốc chủng trong
thuốc chủng dùng để chích. Trong trường hợp thuốc chủng qua mủi, họ dùng
những kỷ thuật nghịch đảo di truyền (reverse genetic technology) để đọc mật
mă những siêu vi cúm này rồi tổng hợp lại siêu vi cúm và loại bỏ những phần
mang độc tính (PA, PB1, PB2, NS1) và làm thuốc chủng xịt vào mủi. loại
thuốc chủng này tạo ra được sức đề kháng cho cơ thể gần giống với một sự
nhiễm siêu vi cúm một cách tự nhiên (bệnh cúm). Sự đề kháng lên đến trên 20
năm và có nhiều phản ứng chéo với các loại phụ của siêu vi cúm khác nhiều
hơn là loại chích vào bắp thịt.
Có
những thuốc chủng pha với chất thêm vào (adjuvant) gây phản ứng phụ như sốt
nhẹ hay sưng đau nhẹ tại chổ chích thuốc nhưng Tylenol hay Advil, Motrin..
đều giúp qua những biến chứng một cách nhẹ nhàng. V́ thuốc thêm vào kích
thích hệ thống miển nhiễm cơ thể mạnh hơn nên một nửa liều thuốc chủng cộng
với chất thêm vào có thể tạo miển nhiễm tốt như nguyên liều thuốc chủng. Do
đó giúp sự sản xuất dể đáp ứng với nhu cầu quá lớn hiện nay.
Chất
thủy ngân (thimerosal) được bỏ trong thuốc chủng để giết những vi khuẩn cũng
như vi nấm mọc trong lúc làm và dự trữ thuốc chủng. Viện bào chế thuốc sẽ
lọc ra đến mức độ ít hơn là lượng mỗi ngày vào cơ thể chúng ta qua thực phẩm
trước khi đua ra thị trường tiêu dùng. Cho nên điều này không gây thiệt hại
cho cơ thể chúng ta dù là ở trẻ sơ sinh. Với số lượng thủy ngân quá ít
không thể làm hại được con cháu chúng ta nhưng cúm heo mới này có thể làm
mất đi con cháu chúng ta.
Hăy chủng ngừa.
Tôi hy vọng với những
kiến thức này giúp cho mọi người trải qua cơn đại dịch cúm nguy hiểm này một
cách nhẹ nhàng và không đau khổ.
References:
1. Influenza
Viruses Including Avian Influenza and Swine Influenza
JOHN J. TREANOR
Mandell: Mandell,
Douglas, and Bennett's Principles and Practice of Infectious Diseases, 7th
ed.
Copyright ©
2009
Churchill Livingstone
Influenza in
immunosuppressed populations: a review of infection frequency, morbidity,
mortality, and vaccine responses
2. The
Lancet Infectious Diseases - Volume 9, Issue 8 (August 2009)
Ken M Kunisaki, MD
Edward N Janoff, MD
3.
Inactivated influenza vaccines
Carolyn
B. Bridges
Jacqueline M. Katz
Roland A. Levandowski
Nancy J. Cox
Plotkin:
Vaccines, 5th ed.
Copyright ©
2008
Saunders
4. Immunologic
adjuvants
Frederick
R. Vogel
Stanley L. Hem
Plotkin:
Vaccines, 5th ed.
Copyright ©
2008
Saunders
5. Influenza
vaccine-live
Robert B. Belshe
Robert Walker
Jeffrey J. Stoddard
George Kemble
Husein F. Maassab
Paul M. Mendelman
Plotkin:
Vaccines, 5th ed.
Copyright ©
2008
Saunders
6.
Vaccine
immunology
Claire-Anne Siegrist
Plotkin:
Vaccines, 5th ed.
Copyright ©
2008
Saunders
7. Possible
origin of current influenza A H1N1 viruses
The Lancet
Infectious Diseases - Volume 9, Issue 8 (August 2009)
Hong Zhang
Ling Chen
8. Activity
of the Oral Neuraminidase Inhibitor A-322278 against the Oseltamivir-Resistant
H274Y (A/H1N1) Influenza Virus Mutant in Mice
Mariana Baz, Yacine
Abed, Benjamin Nehmé, and Guy Boivin*
Research Center in
Infectious Diseases, CHUQ-CHUL, and Laval University, Que´bec City,
Québec, Canada
Received 23 September
2008/Returned for modification 15 October 2008/Accepted 12 November 2008
9.
Cross-Reactive Antibody Responses to the 2009 Pandemic H1N1 Influenza Virus
Kathy
Hancock, Ph.D., Vic Veguilla, M.P.H., Xiuhua Lu, M.D., Weimin Zhong, Ph.D.,
Eboneé N. Butler, M.P.H., Hong Sun, M.D., Feng Liu, M.D., Ph.D., Libo Dong,
M.D., Ph.D., Joshua R. DeVos, M.P.H., Paul M. Gargiullo, Ph.D., T. Lynnette
Brammer, M.P.H., Nancy J. Cox, Ph.D., Terrence M. Tumpey, Ph.D., and
Jacqueline M. Katz, Ph.D.
Published at www.nejm.org September 10, 2009
(10.1056/NEJMoa0906453)
10.
Different
evolutionary trajectories of European avian-like and classical swine H1N1
influenza A viruses
Eleca J. Dunham1,
Vivien G. Dugan1, Emilee K. Kaser1, Sarah E. Perkins2,
Ian H. Brown3,
Edward C. Holmes2,4, and Jeffery K. Taubenberger1,*
1 Laboratory of
Infectious Diseases, National Institute of Allergy and Infectious Diseases,
National
Institutes of Health, Bethesda, MD, USA
2 Center for
Infectious Disease Dynamics, Department of Biology, The Pennsylvania
State
University,
University Park, PA, USA
3 Virology
Department, Veterinary Laboratories Agency - Weybridge, Addlestone, Surrey,
UK
4
Fogarty International Center, National Institutes of Health, Bethesda, MD,
USA
*Address
correspondence to:
Jeffery K.
Taubenberger, M.D., Ph.D.,
Laboratory of
Infectious Diseases, National Institute of Allergy and Infectious Diseases
National
Institutes of Health, 33 North Drive, Room 3E19A.2, MSC 3203
Bethesda, MD
20892-3203 USA
Tel.
1-301-443-5960; Fax. 1-301-480-5722
email:
taubenbergerj@niaid.nih.gov

Viết xong ngày 1 tháng 1, năm 2009
Bác Sĩ
Nguyễn
Vĩ
Liệt