THỜI KỲ LƯU LẠC
KHI GIẶC MINH XÂM LƯỢC
(Khoảng 1407 -
1417)
Dương
Anh
Sơn
|
Bài
7 :
KƯ CỮU DỊCH TRAI TRẦN CÔNG
寄舅易齋陳公
Binh dư thân thích bán ly linh,
兵餘親戚半離零
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh.
萬死殘軀偶一生
Văng
sự không thành Ḥe quốc mộng,
往事空成槐國夢
Biệt liên thùy tả Vị Dương t́nh.
別憐誰寫渭陽情
Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức,
不來自擬同王式
Tỵ loạn chung đương học Quản Ninh.
避亂終當學管寧
Dục vấn tương tư sầu biệt xứ,
欲問相思愁別處
Cô trai phong vũ dạ tam canh.
孤齋風雨夜三更
DỊCH THƠ:
Gửi cậu Dịch Trai Trần Công
Người thân sau loạn chia ĺa,
Vạn lần suưt chết thân kia may c̣n.
Mộng Ḥe, việc cũ không xong
Xa nhau ai tả t́nh nồng Vị Dương !?
Không về, nghĩ giống họ Vương,
Quản Ninh tránh loạn, học cùng ông thôi
Nhớ quê xa hỏi sầu khơi,
Pḥng đơn mưa gió tơi bời ba canh.
DỊCH NGHĨA:
Phân nửa người thân sau
loạn đă chia ĺa tan tác - Vạn lần kề cận với cái chết, thân tàn
ngẫu nhiên c̣n sống - Việc đă qua chẳng c̣n, thành giấc mộng
nước Ḥe – Ai đâu tả được t́nh cảm Vị Dương khi phải thương nhớ
v́ xa nhau – Không đến được nghĩ ḿnh giống như Vương Thức - Rốt
cùng tránh loạn lạc nên học theo Quản Ninh - Muốn hỏi nơi chốn
của nỗi sầu nhớ khi phải xa cách – Mưa gió suốt ba canh nơi căn
pḥng đơn độc.
CHÚ THÍCH:
-
軀 khu: thân thể
-
槐國夢
Ḥe quốc mộng: kể chuyện chàng trai thi hỏng nằm ngủ
dưới gốc Ḥe và nằm mộng thấy đỗ đạt giàu sang làm thái thú quận
Nam Kha, lấy công chúa rồi đánh giặc thua, vợ chết, bị thất sủng.
Tỉnh dậy c̣n nằm dưới gốc Ḥe (hay c̣n gọi giấc Nam Kha).
-
別憐 biệt liên: cách xa và thương nhớ nhau (Bản do
Đ.D.Anh (S.đ.d) ghi là “biệt hoài”).
-
誰寫 thùy tả: ai tả ra được, ai tả cho giống được.
-
渭陽
Vị Dương: theo Kinh Thi, Tấn Khương Công đă tiễn đưa
người cậu là Tấn Trùng Nhĩ tức Tấn Văn Công về nước ở đất Vị
Dương.
-
王式 Vương Thức: người đời Hán, thầy dạy Xương Ấp vương
sau bị phế v́ hoang dâm. Vương Thức được người hỏi: “Sao không
can gián?” đă trả lời “Từng can gián qua sách vở rồi”.
-
管寧
Quản Ninh: kẻ sĩ thời Tam Quốc, tránh loạn 37 năm ở
Liêu Đông, được Văn Đế rồi Minh Đế cho mời ra làm quan đều từ
chối.
Bài
8 :
KƯ HỮU
寄友 (一)
Loạn hậu
thân bằng lạc diệp không,
亂後親朋落葉空
Thiên
biên thư tín đoạn thu hồng.
天邊書信斷秋鴻
Cố viên
quy mộng tam canh vũ,
故園歸夢三更雨
Lữ xá
ngâm hoài tứ bích cùng.
旅舍吟壞四壁蛩
Đỗ lăo hà
tằng vong Vị Bắc,
杜老何曾忘渭北
Quản Ninh
do tự khách Liêu Đông.
管寧猶自客遼東
Việt-Trung cố cựu như tương vấn,
越中故舊如相問
Vị đạo
sinh nhai tự chuyển bồng
為道生涯似轉蓬
DỊCH THƠ:
Gửi bạn
(Bài 1)
Thân quen, sau loạn thưa người,
Cánh hồng thu dứt bên trời tin đưa
Mưa ba canh, mộng vườn xưa
Ngâm nga quán khách dế ḥa bốn bên.
Đỗ già Vị Bắc nào quên,
Quản Ninh làm khách ở rền Liêu Đông.
Hỏi thăm người cũ Việt-Trung,
Đáp rằng: cuộc sống cỏ bồng vần xoay.
DỊCH NGHĨA:
Sau loạn, người thân và bạn bè thưa thớt như lá rụng – Ven
trời không có cánh chim hồng, thư tín đứt đoạn thưa vắng – Đêm
canh ba mưa măi, mộng về lại vườn xưa chốn cũ – Ngâm thơ cùng
nỗi nhớ nhung nơi quán khách, tiếng dế mèn vang bốn bên vách
tường – Ông già họ Đỗ quên sao được Vị Bắc - Quản Ninh tự ḿnh
làm khách chốn Liêu Đông - Nếu như có ai hỏi thăm bạn bè cũ ở
Việt Trung - Nói rằng cuộc sống cứ như cỏ bồng vần xoay.
CHÚ THÍCH:
-
落葉
lạc diệp không: thưa thớt, trống vắng như lá rụng.
-
鴻
hồng: chim hồng, hoặc chim nhạn để chỉ sự liên hệ thăm hỏi
bằng tin tức.
-
故園
cố viên: vườn xưa cũ, chỉ quê nhà.
-
吟壞
ngâm hoài: ngâm nga hoặc ngâm thơ cùng với nỗi niềm
lo nghĩ, nhớ nhung.
-
蛩
cùng: con dế mèn. Có sách ghi là “trùng” chỉ côn
trùng rả rích.
-
杜老
Đỗ lăo: ông già họ Đỗ tức Đỗ Phủ, nhà thơ được xưng
tụng là “Thi Thánh”, bạn thân của Lư Bạch.
-
渭北
Vị Bắc: lấy ư trong câu thơ “Vị Bắc xuân thiên thụ -
Giang Nam nhất mộ vân” của Đỗ Phủ (trong “Xuân nhật hoài Lư Bạch”)
tả ḷng mong nhớ bạn hiền của Đỗ Thiếu Lăng.
-
管寧
Quản Ninh: kẻ sĩ có khí phách thời Tam Quốc,
làm khách tránh loạn ở Liêu Đông 37 năm.
Bài
9 :
KƯ HỮU
寄友
(二)
B́nh sinh
thế lộ thán truân chiên,
平生世路嘆迍邅
Vạn sự
duy ưng phó lăo thiên.
萬事惟應付老天
Thốn
thiệt đăn tồn không tự tín,
寸舌但存空自信
Nhất hàn
như cố diệc kham liên.
一寒如故亦堪憐
Quang âm
thúc hốt thời nan tái,
光陰倏忽時難再
Khách xá
thê lương dạ tự niên.
客舍淒涼夜似年
Thập tải
độc thư bần đáo cốt,
十載讀書貧到骨
Bàn vô
mục túc tọa vô chiên.
盤無苜蓿坐無氈
DỊCH THƠ:
Gửi bạn (Bài 2)
Đường đời gian khổ xiết bao!
Biết bao nhiêu chuyện đành giao lăo trời.
Vẫn tin tấc lưỡi c̣n thôi,
Cái nghèo vẫn thế một đời thương thay.
Khó về vun vút tháng ngày,
Đêm buồn quán khách năm chày vắng tăm.
Nghèo xơ đọc sách mười năm,
Chỗ ngồi chẳng đệm, không mâm rau bày.
DỊCH NGHĨA:
Đường đời trong cuộc sống vẫn than chuyện vất vả, gian lao –
Muôn ngàn việc nên gửi gắm cho ông trời già - Tấc lưỡi c̣n đây
vẫn tự tin vào ḿnh - Thật đáng thương vẫn nghèo như thuở nào –
Tháng ngày qua nhanh vun vút khó trở lại được – Nơi quán khách
buồn bă vắng tanh, đêm dài như năm chày - Đọc sách cả mười năm
mà cái nghèo đă đến tận xương cốt – Bàn ăn trống trải không rau
mục túc, chỗ ngồi chẳng có đệm.
CHÚ THÍCH:
-
迍邅
truân chiên: gian lao, khó khăn vất vả.
-
老天
lăo thiên: trời già: thường dùng để oán trách số phận.
-
但:
đản chỉ có, suông rỗng.
-
一寒
nhất hàn: một đời nghèo khổ.
-
空自信
không tự tín: tin suông rằng, tin không có ǵ chắc.
-
堪憐
kham liên: đáng thương thay.
-
倏忽
thúc hốt: chớp nhoáng, đi nhanh vun vút.
-
光陰
quang âm: chỉ thời gian, tháng ngày.
-
淒涼
thê lương: buồn bă, vắng vẻ.
-
夜似年
dạ tự niên: đêm giống như cả năm rồi.
-
貧到骨
bần đáo cốt: nghèo tận xương, nghèo xơ xác.
-
無苜蓿
vô mục túc: không có rau có thể ăn được. Nghĩa là
nghèo tới cùng cực!
-
無氈
vô chiên: không có chiếu, đệm. Bản do Đ.D.A (S.đ.d
tr.245) hiệu đính là “Bàn chung mục túc.” Nghĩa là mâm bàn chỉ
có rau mục túc. Bản do H.K. (S.đ.d tr.78) dùng chữ “vô” mạnh và
hợp nghĩa với câu trên là “nghèo đến tận xương cốt” nghĩa là quá
đỗi nghèo.
Dương
Anh
Sơn
Giáo Sư Triết học
Trung học Ninh Ḥa
|