Có thể nói rằng ư nghĩa cuộc đời khởi đi từ những kinh
nghiệm mà mỗi người đă trải qua trong kiếp nhân sinh. Dĩ
nhiên, đây không phải là những kinh nghiệm thông thường
h́nh thành bởi thói quen, bởi kinh nghiệm kẻ khác, bởi
thiên kiến hoặc những tri thức sẵn có. Muốn sống đích
thực với những kinh nghiệm này, người ta phải nằm trong
một trạng thái tra hỏi và t́m kiếm thường xuyên mới mong
đạt tới một tâm thức yên b́nh giữa ḍng đời mải miết.
Thêm vào đó, đời sống bao khổ đau, bao nỗi thăng trầm
đắng cay cũng chính là trường đào luyện con người. Từ sự
nhận thức ở mỗi lần đụng chạm ấy, ư nghĩa đời sống xét
như một toàn thể mới nẩy sinh. Nếu “văn tức là người”
(le style c'est l'homme) như Buffon đă nhận định, th́
xuyên qua cuộc đời và các tác phẩm của Tố Như tiên sinh,
chúng ta sẽ nhận thấy ông là người có đầy đủ thẩm quyền
hơn bất cứ ai khác để đưa ra bài học được rút từ kinh
nghiệm sống: “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Thành
thử phải trải qua một cuộc bể dâu, phải tham dự vào
“những điều trông thấy mà đau đớn ḷng”, cụ Tiên Điền
mới thâm nhập lẽ vô thường của cuộc đời thể hiện qua các
tác phẩm lưu truyền. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại trên
cầu đoạn trường đối diện với đau khổ th́ quả thật đời
này đầy rẫy những tính cách bi đát và khe khắt của định
mệnh như nàng Kiều chịu đựng. Với Nguyễn Du, có lẽ điều
quan trọng là phải vượt qua, phải đến bên kia cầu để đến
cơi b́nh yên sau khi đă thực chứng sự thật về cuộc đời.
Mặt khác, bài học đoạn trường xây dựng trên niềm cay
đắng, trên sự khổ đau, trên lẽ vô thường mà Kiều biểu
trưng cũng chính là thành tố của đạo Phật được phát sinh
từ đó như một thứ chân lư không thể phủ nhận nơi ḍng
đời. Trong chiều hướng này, chúng ta sẽ nhận thấy đạo
Phật đă đóng một vai tṛ tích cực trong đời sống tinh
thần Nguyễn Du và tiềm tàng ở hầu hết tác phẩm của tiên
sinh. Ở một b́nh diện nào đó, khi t́m đến các tác phẩm
của Tố Như, đặc biệt là Đoạn Trường Tân Thanh, tư tưởng
đạo Phật đă được thăng hoa trở thành một thứ nghệ thuật
sống, mượn ngôn từ của thi ca để diễn đạt. Thêm vào đó,
chúng ta cũng nhận thấy tác giả đă sử dụng tư tưởng đạo
Phật có thể hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau, từ b́nh dân
cho đến trí thức, từ phổ thông cho đến sâu xa. Cho nên,
đến với Nguyễn Du và đọc Truyện Kiều, người ta phải
trong một nhịp điệu vi tế, mới thấu đáo được chân nghĩa
ẩn dụ trong từng biểu tượng và mối dây liên kết chúng.
Và cũng v́ thế, những thành kiến có tính cách tri thức
luận nhằm tŕnh bày ảnh hưởng đạo Phật bên trong Đoạn
Trường Tân Thanh hoặc một ảnh hưởng nào khác có lẽ sẽ
thất bại ngay từ đầu, nếu chân nghĩa chỉ là những h́nh
ảnh do những công tŕnh suy diễn mà thôi .
Do đó, những dấu tích trong Đoạn Trường Tân Thanh cần
được thẩm định một cách nhất quán mới có thể nhận ra
được vai tṛ và ư nghĩa của nó. Cuộc đời ba ch́m bảy nổi
của Kiều và ngay chính Nguyễn Du là một kinh nghiệm sống
thật. Giữa đạo Phật và kinh nghiệm sống thật, thực chứng
ấy là một không thể tách rời nhau. Cho nên, vai tṛ đạo
Phật có mặt trong Đoạn Trường Tân Thanh đặt trên nền
tảng sự thật và sự Khổ (dukha), hiểu một cách rộng răi
và đúng tinh thần của thời đại này và cuộc đời Thúy Kiều
chỉ là một trong muôn ngàn biểu trưng mà thôi. Chính. v́
thế, địa vị đạo Phật nơi Đoạn Trường Tân Thanh có một
tính chất thật đặc biệt và toàn bộ chớ không nh́n một
cách biệt lập cạnh những tư tưởng khác được.
Đoạn Trường Tân Thanh đă để lại những dấu ấn sâu sắc
trong tâm hồn những người yêu thích nó. Đó là một tác
phẩm lớn có sức cuốn hút chúng ta một cách mạnh mẽ,
không chỉ ở ngôn ngữ chắt lọc, trau chuốt, nghệ thuật tả
cảnh, tả t́nh phong phú, đặc sắc mà c̣n ở nội dung tư
tưởng chất chứa trong tác phẩm:
1. Dùng Lời để đạt ư, dùng ư để đạt Nội Dung. Với cách
biện chứng như thế, chúng ta thấy rằng thông qua ngôn
ngữ thi ca của Đoạn Trường Tân Thanh, nội dung chủ yếu
đem lại sức sống, và sự tồn tại của tác phẩm lớn này
chính là tư tưởng đạo Phật xuyên suốt tác phẩm. Phủ nhận
tư tưởng đạo Phật tức là xóa bỏ phần cốt tủy của Đoạn
Trường Tân Thanh. V́ vậy, khi kết thúc Đoạn Trường Tân
Thanh, Nguyễn Du đă viết:
“Thiện căn ở tại ḷng ta
(c. 3251)
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
“Ḷng ta” hay chữ Tâm chính là kiến giải của Nguyễn Du
về cuộc đời thông qua số phận của nàng Kiều với những
bước đường đoạn trường, truân chuyên.
“Tẻ” và “vui” (“tẻ vui cũng tại ḷng này mà ra” –
Đ.T.T.T). “Khổ đau” và “hạnh phúc”, đó là hai
đỉnh điểm mà Kiều đă đi qua “ḷng này mà ra” ...
Nói khác hơn, “ḷng này” hay tâm thiền là kết quả của sự
thực chứng trên bước đường tra hỏi về số kiếp của Kiều.
Nếu quá tŕnh giác ngộ của đạo Phật bắt đầu từ nhận thức
về Khổ đế th́ nàng Kiều cũng bắt đầu ư thức về sự
khổ, sự vô thường của kiếp người:
“Tẻ vui, thôi cũng tính trời, biết sao?”
Kế đến, ở giai đoạn Tập đế, Kiều đă nhận ra
“Tẻ vui cũng một kiếp người
(c. 1193)
Rồi ở giai đoạn Diệt đế, Nguyễn Du qua lời nói
của chàng Kim đă nhận ra nơi con người Kiều một sự mới
mẻ của sự tỏ ngộ:
“Hoa tàn mà lại thêm tươi
(c. 3123)
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”
Và cuối cùng Nguyễn Du đă mô tả cái tâm giác ngộ nơi
Kiều tương ứng với giai đoạn thứ tư của Tứ Diệu Đế
tức là Đạo Đế.
Chàng rằng:
“Phổ ấy thế nào
(c. 3207)
Xưa sao sầu thảm giờ sao vui vầy
Tẻ vui cũng tại ḷng này
Hay là khổ tận đến ngày cam lai?”
Từ những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du trong “Thanh Hiên
Tiền Hậu Tập”, “Nam Trung Tạp Ngâm”, “Bắc Hành Tạp Lục”
... cho đến văn Nôm như “Văn Tế Chiêu Hồn” và nhất là
“Đoạn Trường Tân Thanh”, niềm băn khoăn về kiếp người,
về lẽ đạo rồi cũng được trả lời từ cuộc hóa thân của
Kiều sau lần nhảy xuống sông Tiền Đường t́m cái sống
trong cái chết. Cuộc đời Nguyễn Du tiên sinh cũng thế,
phải đi đến Phân Kinh Thạch Đài bên Trung Quốc, ông mới
nhận ra “Kinh không chữ mới là chân kinh”.
“Kinh không chữ” nghĩa là Tâm Thiền. V́ vậy, đó là kết
quả của sự múc cạn vấn đề sau bao sự trăn trở, kiếm t́m.
Mặt khác, nếu chỉ nh́n Đoạn Trường Tân Thanh như một tác
phẩm văn học thông thường sẽ là một thiếu sót lớn, nếu
không nhận ra khía cạnh triết lư xuyên suốt của nó bắt
nguồn từ tư tưởng đạo Phật mà chủ yếu là tư tưởng Thiền
tông.
2. Kinh nghiệm và những nhận thức từ cuộc sống là nền
tảng cho một tác phẩm văn học để nó có sức hấp dẫn người
đọc. Tố Như tiên sinh bằng chính sự t́m kiếm, suy tư và
trăn trở về cuộc đời của ḿnh, thông qua Đoạn Trường Tân
Thanh, thông qua đời Thúy Kiều, đă cho chúng ta những
hiểu biết sâu sắc về tư tưởng Thiền tông. Và không có tư
tưởng Thiền tông để làm sợi chỉ nối cho Đoạn Trường Tân
Thanh, tác phẩm này sẽ trở thành tầm thường như “Kim Vân
Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân mà thôi. Mặt khác,
nếu không có cuộc sống với bao nhiêu “tẻ vui”, đau khổ
và hạnh phúc th́ cũng chẳng có đạo Phật. Cuộc đời là sự
thiết định trên sự vô thường và tác phẩm văn học cũng
trôi theo chiếc bách giữa ḍng đó.
Sau hết, nếu “Đoạn Trường” là chiếc cầu vô thường th́
“Tân Thanh” lại là sự giác ngộ về lẽ vô thường đó. Âm
thanh mới đó là ǵ há không phải là sự “vui vầy” (xưa
sao sầu thảm giờ sao vui vầy) mà Kiều có được trong sự
an lạc? Đoạn Trường Tân Thanh lôi cuốn chúng ta một phần
lớn bởi cuộc đời nàng Kiều luôn bị “gió táp mưa sa”
nhưng vẫn không ngừng vươn tới sự an lạc: “Tẻ vui cũng
tại ḷng này mà ra”.
Trong chiều hướng ấy, sức khơi dậy của Đoạn Trường Tân
Thanh sẽ vẫn c̣n măi măi nếu chính cuộc đời mỗi người
vẫn không ngừng t́m kiếm để giác ngộ, để an lạc ngay
trong cuộc sống như Thúy Kiều, giống như kinh Mathieu đă
viết: “Cứ gơ cửa, cửa sẽ mở, cứ t́m rồi sẽ thấy”. Phải
chăng cái Hay, cái Đẹp của Đoạn Trường Tân Thanh chính
là sự huyền nhiệm của nghệ thuật cao cả? Và phải chăng
Nghệ Thuật cao cả của Truyện Kiều cũng chính là Lẽ Đạo?
và rồi Lẽ Đạo là ǵ? Câu trả lời ấy phải chăng chỉ dành
cho những ai đó vượt qua cầu Đoạn Trường, tham dự trọn
vẹn với tác phẩm bằng chính sự thực chứng của ḿnh trong
cuộc sống mới giải đáp nổi?
* *
*
Để thay lời kết, chúng ta có thể mượn lời của Mộng Liên
Đường Chủ Nhân, người từng sống ở thời vua Minh Mạng, đă
nhận định về thi tài và con người của Tố Như tiên sinh:
“Tố Như tử dụng tâm đă khổ, tự sự đă khéo, tả cảnh đă
hệt, đàm t́nh đă thiết, nếu không phải có con mắt trông
thấu cả sáu cơi, tấm ḷng nghĩ suốt cả ngh́n đời, th́
tài nào có cái bút lực ấy”
.
Với lời cảm phục và khen ngợi sâu sắc này, chúng ta càng
thấy rơ vóc dáng lớn lao của bậc thi hào, với một trí
tuệ và tấm ḷng rộng lớn. Phải chăng, đó là một con
người đă thấm nhập Lẽ Đạo, đă sống với Lẽ Thiền và đă vẽ
ra được Một Nghệ Thuật Sống qua h́nh ảnh vươn lên của
Thúy Kiều?
Góp thêm một cách nh́n về Đoạn Trường Tân Thanh và về
Nguyễn Du là để cùng khơi mở với nhiều cách nh́n khác,
cốt sao cho cái Hay, cái Đẹp của tác phẩm này luôn được
tỏa sáng, măi măi xứng đáng là một tác phẩm lớn trong
kho tàng văn học Việt Nam và nhân loại.