Mỹ Sơn là một khu di tích đền
tháp quan trọng nhất của Vương quốc cổ Champa đã tồn tại và phát triển
suốt hơn 10 thế kỷ, được phát hiện năm 1898 bởi một người Pháp có tên là
M.C.Paris. Nằm ẩn sâu trong thung lũng thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên,
cách thành phố Ðà Nẵng khoảng 68 km về phía tây nam, cách Trà Kiệu khoảng
10 km về phía tây. Mỹ Sơn đã được nghiên cứu và giới thiệu cùng du khách
trong nước và toàn thế giới sau các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học người Pháp. Vào năm 1898, di tích Mỹ Sơn được phát hiện bởi một học
giả người Pháp tên là M.C Paris. Vào những năm đầu thế kỷ XX này, hai nhà
nghiên cứu khác của Pháp tên là L.Finot và L.de Lajonquière và nhà khảo cổ
học H. Parmentier đã đến Mỹ Sơn để nghiên cứu văn bia và nghệ thuật kiến
trúc, điêu khắc Chăm. Cho đến những năm 1903-1904, những tài liệu cơ bản
nhất về bia ký và nghệ thuật kiến trúc Mỹ Sơn đã được L.Finot chính thức
công bố.
Sau khi vượt đèo Hải Vân (bấy giờ
chưa có hầm Hải Vân), qua khỏi Đà Nẵng, đến Duy Xuyên - Quảng Nam, xe bắt
đầu đi vào đường đất và đến khu hành chánh, mọi người phải xuống xe. Từ
đây, muốn đến được khu di tích, thầy trò chúng tôi phải đi hết một đoạn
đường núi dài khoảng gần 4 cây số và phải đi qua một chiếc cầu tre nhỏ dài
khoảng 200 mét bắt ngang một con suối lớn. Nếu không có xe Jeep đưa đón
thì có lẽ phải mất hơn một giờ đi bộ mới đến được địa điểm tham quan. Đoàn
người rảo bộ dưới bầu trời dần dần dịu lại khác với cái nắng khi đi trên
đường lộ. Hoà với tiếng suối róc rách, tiếng chim hót, tiếng thông vi vu,
khung cảnh Mỹ Sơn như tạo một bức tranh nên thơ kì lạ.
Và trước mắt chúng tôi, từng ngọn
tháp rõ dần, lớn dần hiện ra, quả đúng là một thành phố cổ ẩn tàng. Khi
chưa đến nơi, khó có ai ngờ giữa núi rừng thâm u, quanh năm bảo phủ bởi
màu xanh cây cỏ lại tồn tại một khu di tích đền tháp to lớn và đa dạng như
thế. Mặc dù thời gian cùng chiến tranh đã biến nhiều nơi thành phế tích
nhưng dựa trên những hiện vật điêu khắc, kiến trúc còn lại cho đến ngày
nay, những phong cách cũng như những giai đoạn lịch sử mỹ thuật của dân
tộc Chăm, những kiệt tác văn hoá vẫn được tái hiện rõ ràng. Nó đánh dấu
một thời huy hoàng của văn hoá kiến trúc Chămpa nói riêng và của Đông Nam
Á nói chung.
Chúng tôi xin miêu tả sơ lược vài
nét về Mỹ Sơn dựa vào sự chứng kiến tận mắt cũng như các tài liệu tại văn
phòng hướng dẫn và tham khảo từ các bài viết liên quan như sau:
Những dòng chữ ghi trên tấm bia sớm
nhất (ngôn ngữ trên các bia ký ở đây đều dùng tiếng Sanskrit) ở Mỹ
Sơn, có niên đại khoảng thế kỷ thứ IV, cho biết vua Bhadresvara đã xây
dựng một ngôi đền để dâng cúng thần Siva-Bhadresvara. Hơn hai thế kỷ sau
đó, ngôi đền đầu tiên được xây dựng bằng gỗ đã bị thiêu huỷ trong một trận
hỏa hoạn lớn. Vào đầu thế kỷ thứ VII, vua Sambhuvarman đã xây dựng lại
ngôi đền bằng những vật liệu bền vững hơn (còn tồn tại đến ngày nay).
Bức màn lịch sử của nhiều triều đại xưa đã được các nhà khoa học vén dần
lên thông qua những bia ký và kiểu kiến trúc.
Bằng vật liệu gạch nung và đá sa
thạch, trong nhiều thế kỷ, người Chăm đã dựng lên một quần thể kiến trúc
đền tháp độc đáo, liên hoàn: Ðền chính thờ Linga-Yoni biểu tượng của năng
lực sáng tạo. Bên cạnh tháp chính (Kalan) là những tháp thờ nhiều vị thần
khác hoặc thờ những vị vua đã mất. Mỗi thời kỳ lịch sử, kiến trúc mang
phong cách riêng, cũng như mỗi đền tháp thờ những vị thần, những triều vua
khác nhau tạo nên đường nét kiến trúc đầy dấu ấn, nhưng nhìn chung tháp
Chàm đều được xây dựng trên một mặt bằng tứ giác, chia làm 3 phần: Ðế tháp
vững chắc, thân tháp kỳ bí mê hoặc và phần trên là những biểu tượng tôn
giáo và những cái gần gũi cuộc sống con người.
Theo các nhà nghiên cứu tháp Chàm
cổ, nghệ thuật kiến trúc tháp Chàm tại Mỹ Sơn hội tụ được nhiều
phong cách khác nhau. Dưới triều đại vị vua Chăm đầu tiên là Bhadravarman
(Phạm Phật, 349-361), theo các bia ký, thì Mỹ Sơn đã là khu di tích tôn
giáo của Vương quốc Champa rồi. Sự nghiên cứu các bia ký còn cho biết,
những đền tháp trước tiên là nơi thờ cúng Phạm Thiên – đấng tối cao – mà
dưới triều đại mỗi vị vua, tên của vị thần được ghép thêm với tên của vị
vua ấy vào trước. Những thế kỷ sau đó, các đền tháp tiếp tục được xây dựng
bổ sung; nhất là vào thế kỷ X, những kiến trúc lớn nhất, đẹp nhất còn tồn
tại cho đến ngày nay đã được xây dựng, như tháp A1, các nhóm B, C, D, K,
G, H ...
Qua một thời gian chiến tranh,
nhiều đền tháp, miếu mạo, làng mạc bị phá huỷ, của cải bị kẻ thù cướp đi,
nhưng sau đó lại được khôi phục và xây dựng nhiều hơn. Vị vua có công lớn
trong việc đánh đuổi kẻ thù và phục hồi các kiến trúc là Vua Hari.(vt)
IV (1074-1080) – một trong những vị vua của vương triều mới (vương
triều Vijava) thủ đô ở Bình Định.
Từ năm 1167, sau khi đánh thắng
quân Khơ-me, vua J. Indra IV đã đem tất cả chiến lợi phẩm chiếm được ở
Campuchia dâng cúng cho thần Srisana – vị thần tối cao đã bị phá huỷ trước
kia. Số lễ phẩm dâng cúng đó rất nhiều, gồm vàng, bạc, châu báu, gỗ trầm,
cả kosa bằng vàng... Nhưng cũng do đây mà năm 1190, người Khơme đã tấn
công trả thù và chiếm đóng Champa.
Từ sau năm 1220, cuộc chiến Khơ-me
chấm dứt, vua J.Parames.(vt) lên ngôi, Mỹ Sơn lại được
tu bổ. Vua dựng lại tất cả mọi linga ở Ponagar Nha Trang và ở Mỹ Sơn. Thời
gian sau đó, tuy không có bia ký nào ghi nhưng dựa vào sự xác định phong
cách, vẫn có nhiều công trình kiến trúc được xây dựng, như tháp B1 vào
thời vua J.Simha (Chế Mân)... Như vậy, mãi cho đến khi chấm dứt vương
triều Champa năm 1470, Mỹ Sơn vẫn được các vua Chăm quan tâm thờ phụng.
Do được thờ phụng, xây dựng và
tôn tạo liên tục suốt hơn một nghìn năm, nên Mỹ Sơn hiện còn bảo lưu rất
nhiều những di tích kiến trúc, điêu khắc, bia ký... xứng đáng là một bảo
tàng vô giá về văn hoá, nghệ thuật và lịch sử Champa. Tuy nhiên, không có
sử liệu nào từ thời Lê trở đi nhắc đến địa điểm này. Điểm này chúng ta
cũng nên nhớ, khi nhà Minh xâm lược và đô hộ Đại Việt, với ý đồ đồng hoá
dân tộc, họ đã đem tất cả mọi sách vở, biểu tượng văn hoá, sử liệu… về
nước họ hoặc thiêu huỷ sạch. Cho đến cuối thế kỷ XIX, khu tháp Mỹ Sơn đang
bị che phủ trong rừng rậm mới được phát hiện.
Để tiện việc nghiên cứu, người ta
chia các đền tháp ra thành các nhóm và nhiều khu:
– Khu A và A’ (khu Tháp Chùa) có 19 di tích.
– Khu B, C, D (khu Tháp Chợ) có 12 di tích.
– Khu E, F (khu Tháp Bàn Cờ) có 4 di tích.
– Khu G có 5 di tích; và các khu khác có 1 đến vài
di tích.
Theo thống kê của nhà nghiên cứu
H. Parmentier thì toàn bộ Mỹ Sơn có hơn 70 đền tháp. Nhưng qua thời gian
thăng trầm cũng như ảnh hưởng chiến tranh, nhất là trận mưa bom cuối năm
1969, đến nay, Mỹ Sơn chỉ còn lại khoảng 20 ngôi tháp. Những thập kỷ gần
đây, Mỹ Sơn đã thật sự hồi sinh, được xem là một khu di tích, một địa điểm
du lịch danh thắng của đất nước. Hiện nay, Mỹ Sơn đang được đầu tư phục
hồi để chào đón du khách và các nhà nghiên cứu.
Mặc dù bị tàn phá nhiều, Mỹ Sơn
vẫn được xem là một bức tranh thu nhỏ về lịch sử kiến trúc và điêu khắc cổ
Chămpa. Ở đây, hiện vẫn còn những dấu tích, hiện vật của các giai đoạn
lịch sử mỹ thuật. Theo nhà nghiên cứu P.Stern, hệ thống tháp Mỹ Sơn được
phân loại thành 7 phong cách nghệ thuật, đại diện cho các giai đoạn phát
triển liên tục của kiến trúc Chămpa:
Phong cách cổ: Tháp F1.
Phong cách Hoà Lai: Tháp F3, A2, C7.
Phong cách Đồng Dương: Tháp B4, A11-13, B2 và A10.
Phong cách Mỹ Sơn A1: Tháp A1.
Phong cách chuyển tiếp "A1 – Bình Định": các nhóm
tháp B,C,D.
Phong cách Bình Định: E4, F2, K6.
Phong cách muộn (và Bình Định): các nhóm tháp G, H
và B1.
Trong số 20 tháp hiện còn, phần
nhiều đều hư nát, chỉ còn lưu lại mảng tường, phần thân hoặc nền móng, chỉ
có một số ít tháp là còn tương đối nguyên vẹn.
– Tháp B5: Một trong những ngôi
tháp còn nguyên vẹn của nhóm B, trong khu Tháp Chợ, thuộc phong cách Mỹ
Sơn A1 (thế kỷ X) – một phong cách kiến trúc nhẹ nhàng, duyên dáng và
trang nhã. Chức năng của nó vốn là một nhà kho nên toàn bộ hình dáng mô
phỏng một ngôi nhà dân gian. Mái tháp cong như yên ngựa, hình một chiếc
thuyền nằm dài theo hướng đông – tây. Phần thân có bình đồ hình chữ nhật,
hai mặt tường dài có 9 cột ốp đôi được phủ kín bằng những hoa văn rậm rạp,
trên đầu cột là các đường gờ nhô ra to dần để đỡ bộ mái. Khoảng giữa hai
cột ốp là một ô cửa giả hình cung nhọn với các phù điêu hình người được
chạm trực tiếp giữa nền gạch. Hai mặt tường ngắn, khoảng giữa trổ hai cửa
sổ được trang trí bởi các con tiện bằng đá, và hình hai con voi châu vòi
với nhau.
– Tháp C1: Cấu trúc có hai phần,
về cơ bản giống tháp B5 nhưng lớn hơn nhiều vì đây là tháp thờ chính. Phần
tháp tiền sảnh ở phía đông và tháp thờ gián tiếp ở phía tây. Tháp này
không có cửa sổ mà đều được kiến thiết một ô cửa giả nhô ra khá mạnh có
hình người bên trong.
– Tháp D1 (đối diện với tháp
thờ B1 hiện không còn): Dạng một ngôi nhà dài để đón khách hành hương,
chuẩn bị đồ lễ, thuộc phong cách Mỹ Sơn A1. Hiện nay, bộ mái và tường phía
nam đã sụp đổ. Hai tường ngắn phía đông, tây có hai cửa ra vào. Mặc tường
bắc còn nguyên, có 3 ô cửa sổ được trang trí như ở tháp B5. Trên mỗi cửa
sổ có một ô chạm khắc hình trang trí khác nhau. Trên đó nữa là hình các vũ
nữ nhảy múa rất sinh động. Mặc tường này cũng có cấu tạo cột ốp đôi, cửa
giả... như tháp B5. Trên đầu các cột ốp hai bên có hình khắc hai người quỳ,
cầm vũ khí như trong tư thế đang chiến đấu.
– Tháp D2 là một toà nhà giống D1
nhưng đơn giản hơn nhiều, chứng tỏ nó thuộc giai đoạn cuối của phong cách
Mỹ Sơn A1. Chỉ có hình vũ nữ đang múa trên các cửa sổ, mặt tường ngoài chỉ
có các đường gờ hình chữ nhật chứ không có phần điêu khắc nào.
– Tháp A1: Tháp thờ chính của
nhóm A trong khu vực Tháp Chùa, là một kiệt tác nghệ thuật kiến trúc của
Champa. Trước khi bị chiến tranh tàn phá, tháp cao 24m, mỗi cạnh rộng 10m.
Thân tháp cao, thanh tú với các mặt tường đều có bố trí các cặp cột ốp
sóng đôi, các ô cửa giả có hình người đứng trang nghiêm chắp tay. Trên mỗi
cặp cột ốp được phủ kín bằng những hình chạm hoa lá uốn lượn thanh thoát.
Giữa các cột ốp góc tường cũng như giữa hai mặt tường nam, bắc còn được tô
điểm bằng những phiến đá thể hiện hình thiên nữ Apsara hoặc thuỷ quái
Macara. Phía trên thân tháp có ba tầng nhô dần với hình tháp ở bốn góc của
mỗi tầng, mô phỏng hình dáng và cấu trúc của phần thân. Trên cùng là đỉnh
tháp hình chóp bằng đá sa thạch. Nền tháp có hai tầng: tầng trên chạm các
hình voi, sư tử ngộ nghĩnh, tầng dưới được trang trí xen kẽ hình mặt quái
vật Kala, thuỷ quái Macara và hình voi có người cưỡi. Tuy nhiên, kiến trúc
A1 hiện nay chỉ được hình dung dựa trên hình ảnh tháp B3 – ngôi tháp còn
lại có cấu trúc, hình dáng và trang trí tương tự.
– Tháp G1: Tháp thờ chính và là
tháp duy nhất còn nguyên vẹn của nhóm G, thuộc phong cách Bình Định, nằm
trên ngọn đồi phía bắc khu A. Về cơ bản, G1 cũng có hình dạng tháp vuông
nhiều tầng, nhưng trên mặt tháp không có hình chạm khắc nào. Đặc biệt,
tháp G1 quay mặt hướng tây, và tiền sảnh mở thêm hai cửa hông. Cả ba cửa
và các cửa giả đều có hình vòm cuốn như mũi lao nhọn ở phía trên. Riêng
vòm của cửa ra vào có trang trí hình nữ thần bằng đất nung, ngồi xếp bằng,
tay cầm hai búp sen. Phần bệ tháp có một con sư tử bằng đá khá lớn, trông
rất hung dữ. Quanh chân tháp là những mặt nạ đầu quái vật kala bằng đất
nung: sừng cong, mắt xếch, mũi to, nhe nanh...
– Tháp B1: Tháp thờ chính của
nhóm B, là một tháp được xây dựng sau cùng, có diện tích mặt bằng lớn nhất
và cũng đầy bí ẩn nhất. Hiện nay, chỉ còn lại chân tháp đồ sộ xây bằng
những tảng đá lớn. Trong tháp hiện còn cả một bộ linga-yoni rất lớn. Xung
quanh tháp còn rải rác những vật trang trí bằng đá sa thạch mang nét phong
cách Bình Định.
Với hơn 70 công trình kiến trúc
bằng gạch đá, được xây dựng từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ XIII, mặc dù số
lượng tháp không còn nhiều và không nguyên vẹn bao nhiêu, nhưng Mỹ Sơn vẫn
là một khu di tích đền tháp quan trọng nhất, có giá trị nhất của lịch sử
kiến trúc cổ Champa. Hơn nữa, Mỹ Sơn còn lưu giữ nhiều kiệt tác kiến trúc,
điêu khắc cổ của người Champa, mà có nhiều tác phẩm đã được trưng bày tại
các bảo tàng.
Sau khi phát hiện ra khu tháp cổ
Mỹ Sơn, nhiều hiện vật tiêu biểu trong đó đặc biệt là những tượng vũ nữ,
các thần linh thờ phượng của dân tộc Chăm, những con vật thờ cũng như
những cảnh sinh hoạt cộng đồng đã được đưa về thành phố Ðà Nẵng xây dựng
thành bảo tàng kiến trúc Chămpa. Tuy không phải là nhiều, nhưng những hiện
vật này là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tiêu biểu, nó có giá trị
văn hoá của một dân tộc, và cũng là những chứng tích lịch sử rất sống động,
xác thực của một trong những dân tộc trong cộng đồng Việt Nam giàu truyền
thống văn hoá.
Những gì được trình bày trên đây
chủ yếu đều là dựa vào những lời kể lại. Lịch sử qua rồi, hình ảnh hào
nhoáng, đẹp đẽ, rực rỡ cũng chỉ là của quá khứ. Thật tế, ai đã bước chân
đi trên từng miếng gạch vỡ, tận mắt nhìn những đống đổ nát hoang tàn, lơ
thơ cỏ dại mới thấy lòng xót xa, dấy lên một niềm mang mang hoài cổ. Còn
đâu nữa những vương triều tráng lệ với những ông vua có niềm tin tôn giáo
nhưng cũng hiếu thắng và nhiều tham vọng để rồi thường xuyên chém giết
tranh giành nhau. Còn đâu nữa một dân tộc ngày nào hiên ngang sánh vai
nhưng vì thiếu tính tự chủ dân tộc, đã dần dần mất tên trên bản đồ thế
giới. Tuy thật vui và cảm động khi nghe "Tiếng hát dân Chàm" của Châu Kỳ -
một ca khúc hài hoà nối liền tình cảm của hai dân tộc Việt, Chămpa; nhưng
cũng xót xa biết mấy khi nghe “Hận Đồ Bàn". Ôi, não nề thay ! Dòng tâm
thức miên man, còn luyến lưu, lắng đọng với một mảng không gian xanh um
của núi rừng pha chút màu nâu xẩm của gạch đổ, rêu phong … nhưng chân đã
bước đi xa dần, xa dần rời khỏi miền xưa ký ức.