www.ninh-hoa.com

Mười Ngày Trên Đất PHẬT:  1 2 3 4 5 6
Nhật kư hành tŕnh chiêm bái Phật tích
Mục Đồng


 




 

 
                                           
  1  2  3   4 

        Kỳ 5:


Tháp Trà t́ - Nhục thân đức Phật

Ngoài ra, những mẫu chuyện khác đă tạo nên màu sắc đa thù của Xá vệ, như: Chuyện Đề Bà Đạt Đa hại Phật và rơi vào địa ngục; chuyện nàng Chiến-già thân sống rơi vào địa ngục v́ bị ngoại đạo mua chuộc; chuyện ngoại đạo vu khống đức Phật giết người bị bại lộ; chuyện vua Tỳ Lưu Ly và đại thần tham mưu bị nghiệp ác hoả thiêu rồi đọa địa ngục do tàn sát ḍng họ Sakya; chuyện 500 người mù do ḷng thành tín sám hối được sáng mắt; chuyện nữ thí chủ thành tín nhất Visakha đă phát tâm cúng dường và ủng hộ rất nhiều cho Phật giáo; chuyện đức Phật hoá độ Angulimala; chuyện đức Phật đích thân rửa vết thương cho một Tỳ-kheo bệnh; và đặc biệt địa danh Xá Vệ có một liên hệ mật thiết với nhiều kiếp sống của đức Phật trong quá khứ.

Khi vua A Dục đến đây chiêm bái thánh tích, ông có dựng 2 trụ đá ở hai bên cổng phía đông để đánh dấu nơi đức Phật và chư Tăng thường trú tại đây trong 24 mùa hạ.

Đến Xá Vệ, không thể trông mong ǵ việc t́m ra dấu vết của một kinh thành xa hoa, tráng lệ. Mong mỏi chỉ là thất vọng v́ tất cả đă đi sâu vào quá khứ. Ở đây chỉ có thể đáp ứng được cho những tấm ḷng tưởng niệm đức Phật và Tăng đoàn. Bởi v́, chỉ có những di tích Phật giáo c̣n sót lại, những nền móng chùa tháp nằm chơ vơ, rải rác khắp nơi. Chiều buông xuống, nh́n cảnh vườn hoang sơ mà cảm thấy đau ḷng, buồn bă. Tâm lư này sẽ được dễ dàng cảm nhận nếu ai đến đây, ngồi yên, lắng ḷng thật tĩnh để tầm tưởng về quá khứ.

Xá Vệ xưa gọi là Sravasti, nay có tên là Saheth-maheth. Di tích chính của Xá Vệ là Kỳ Viên. Khu vườn này do trưởng giả Cấp Cô Độc mua lại của thái tử Kỳ Đà bằng một giao dịch là dùng vàng lót tới đâu th́ lấy đất tới đó. Ngày nay, vườn vẫn c̣n là một khuôn viên rộng lớn và xinh đẹp với rất nhiều nền móng tháp, viện, và cũng là điểm hành hương chính của những ai muốn đến chiêm bái.

Kỳ Viên rất rộng lớn, bao gồm nhiều di tích Phật giáo, như: Hương thất, nơi đức Phật thuyết kinh A Di Đà, cây Bồ Đề A Nan, nhiều chùa tháp, cái giếng h́nh bát giác…


Kỳ viên Tịnh xá

Rời Kỳ Viên, chúng tôi đi tiếp đến ngôi tháp Angulimala cách đó 2km. Di tích của một ngôi tháp lớn vẫn c̣n đôi chút ǵ sót lại sau nhiều thế kỷ và ngày nay có tên là Pakki Kuti. Gần đó là một mô gạch khác mà theo ngài Pháp Hiển và Huyền Trang mô tả, đây là tháp đánh dấu nơi ngôi nhà xưa của trưởng giả Cấp Cô Độc.

Mặt trời khuất dần vào bóng núi, chúng tôi rời gót, đến xin trú lại một đêm tại chùa Hàn Quốc. Ngôi chùa này mới được xây dựng, khuôn viên rất rộng, có đầy đủ tiện nghi cho khách hành hương tạm trú. Một thầy trụ tŕ người Hàn và 4 vị Tăng cùng 10 Phật tử giúp việc người Ấn Độ, tất cả họ đều rất kính Tăng, mến khách. Chúng tôi đă trải qua một đêm thật b́nh an và dùng bữa ăn sáng rất thiền vị tại đây trước khi đi Nepal.

6 giờ sáng, ngày 06-6, chúng tôi khởi hành đi chiêm bái Lumbini và thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatsu), hai nơi gắn liền với sự kiện đản sinh và đời sống của Thái tử Tất Đạt Đa. Trên đường đi, đoàn ghé thăm di tích thành Ca Tỳ La Vệ tại Piprahwa, thuộc vùng Basti của tiểu bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. (Có một nghi vấn về địa điểm chính xác của thành Ca Tỳ La Vệ lịch sử).

Nơi đây cũng chỉ c̣n lại những nền móng bằng gạch hoang tàn. Sau đó, mọi người chuẩn bị thủ tục vượt biên giới qua Nepal; v́ di tích nơi đức Phật đản sinh ngày nay đă thuộc nước khác. Khu vực biên giới xe cộ nườm nượp, chen chúc nhau v́ đường nhỏ hẹp mà thủ tục giấy tờ phải mất nhiều thời gian, nên giao thông bị ứ động. Phải hơn một giờ đồng hồ, chúng tôi mới qua được biên giới và thẳng tiến về chùa Việt Nam Phật Quốc Tự - Lâm Tỳ Ni.


Nơi chính xác đức Phật đản sinh


Thành Ca Tỳ La Vệ ngày nay

Chùa Việt Nam Phật Quốc Tự Lâm Tỳ Ni được Thượng toạ Thích Huyền Diệu xây dựng từ năm 1993, và đă khánh thành năm 2005. Đây là ngôi chùa quốc tế đầu tiên do chính phủ Nepal cấp đất cho Dr. Lam (cách gọi Thượng toạ Huyền Diệu của người Nepal) xây dựng. Cũng như ở Bodhgaya, ngôi chùa Việt Nam Lâm Tỳ Ni này nằm ẩn hiện trong rừng cây, với nhiều mái cong vút cao lên giữa nền trời xanh.

Càng vào trong, chúng tôi thấy ngôi chùa càng nguy nga, tráng lệ. Chánh điện cao với mái tháp nhiều tầng đang được thi công thêm hai lầu chuông, trống giả sơn phía trước. Giữa hồ phía trước bên trái là ngôi chùa một cột, nét đặc trưng Việt Nam, rất uy hùng mà cổ kính.

Trên mặt hồ chính giữa sau cổng tam quan là một mô h́nh bản đồ Việt Nam rất to, nét đặc biệt duy nhất của một ngôi chùa Việt Nam ở nước ngoài. Bên phải chùa là ṭa nhà khách cao tầng, từ dưới lên trên bao gồm khách đường, trai đường, pḥng nghỉ cho chư Tăng và Phật tử, trên cùng là thiền thất, ban công rộng răi có thể nh́n xuống thấy toàn bộ khuôn viên chùa và nhất là bản đồ Việt Nam.

Phía trước là một toà nhà khác nữa cao hai tầng, tầng dưới dành cho việc lưu trú của hương khách, thợ thuyền, có đủ tiện nghi bếp núc riêng, tầng trên là Thiền đường an trí đại hồng chung ngày hai lần dóng tiếng ngân vang đánh thức khách trầm luân, chung quanh khắc danh hiệu chư Phật trong Hồng Danh Bửu Sám.


Đường vào chùa Việt Nam - Lâm Tỳ Ni


Trước cổng chùa Việt Nam- Lâm Tỳ Ni

Một điều đặc biệt nữa, ngôi chùa này là nơi lai văng và cư trú của nhiều con chim hồng hạc. Chim hồng hạc này cao lắm, có thể cao hơn người thường nếu nó đứng thẳng. Trên cổ có một quầng màu đỏ nên gọi là hồng hạc.

Từ những năm đầu tiên đến khai sơn lập tự ở đây, thầy Huyền Diệu đă bắt gặp sự xuất hiện của loài chim này như một niềm đại tường. Thầy đă có nhiều kế hoạch nuôi dạy, bảo quản giống chim quư này rất hữu hiệu. Thầy đă kết hợp với chính phủ ra thông cáo bảo vệ loại di sản thiên nhiên này. Loài chim này rất khôn ngoan, nó hiền với người quen nhưng rất dữ với kẻ lạ.

Gặp lúc trời đẹp, nó xoè cánh múa giữa hồ nước như một vũ sư chuyên nghiệp. Chúng ở chung quanh vùng cũng khá nhiều. Một vài chú khi bị mất trứng cướp con, thường bay về bên cạnh thầy trụ tŕ tỏ vẻ đau buồn, xin được an ủi như người vậy. Hai ngày chúng tôi ở đây, có hai mẹ con hồng hạc đang thường trú trong chùa. Mọi người tranh thủ chụp rất nhiều h́nh ảnh với hai người bạn đặc biệt này.


Hồng hạc tại chùa Việt Nam-Lâm Tỳ Ni


Hồng hạc tại chùa Việt Nam-Lâm Tỳ Ni

Thật không như mong ước, khi đoàn đến nơi, Thượng toạ trú tŕ vừa đi Kathmandu có Phật sự. Tuy nhiên, mọi người vẫn rất vui vẻ v́ như được về lại quê nhà ḿnh, nhất là có mấy anh thợ hồ ở Huế đang thi công đă rất vui mừng chào hỏi v́ lâu ngày mới gặp đồng hương.

Chúng tôi sắp xếp chỗ ở, nấu cơm, tẩy trần và nghỉ ngơi, chuẩn bị cho ngày mai chiêm bái một thánh tích quan trọng cuối cùng của hành tŕnh.

 

(Xem tiếp kỳ 6)


Mục Đồng
 

 

Trang Văn Thơ: Trần Thanh Thiên

 

                                                     6 

                                   
                                      
1  2  3   4  5  

        Kỳ 6:  

Sáng ngày 07-6, đoàn bắt đầu đến chiêm bái khu di tích Lâm Tỳ Ni lịch sử. Trời cứ lất phất mưa, khung cảnh trở nên mờ ảo, không khí thật mát mẻ. Ngoại cảnh và nội tâm trùng duyên, chúng tôi cùng đi tỉnh thức từng bước trên mảnh đất của khu vườn lịch sử ngày xưa. Vào thời vua Tịnh Phạn trị v́, nơi đây là một khu vườn đầy hoa tươi cỏ lạ. Trong vườn toả đầy cây xanh bóng mát. Vẻ đẹp của Lâm Tỳ Ni đă quyến rũ đến độ Hoàng hậu Maya trên đường từ Ca Tỳ La về lại quê bà là Devadaha phải dừng chân lại để nghỉ ngơi và thưởng ngoạn. Đứng tựa vào gốc cây, hoàng hậu nghe ḷng lâng lâng theo tiếng gió ŕ rào và chim hót trên cao. Muôn hoa như hé cười mời gọi người đàn bà thánh thiện thưởng du, nhất là cành vô ưu tuyệt sắc ba ngh́n năm mới nở một lần. Có lẽ biết thời giờ đă đến, nó vươn cành để người vịn tay vào, v́ lúc ấy bà lên cơn đau quặn. Trong giây phút b́nh yên muôn thuở ấy, bà đă hạ sanh Thái tử Tất Đạt Đa, người mà ngày sau đem ánh sáng giải thoát và niềm an vui đến cho muôn loài khắp trong ba cơi; người mà hương hoa từ bi trải rộng ngự trị cả tâm hồn chúng con, để măi đến hôm nay chúng con mới được theo dấu chân xưa, t́m về mảnh đất này.

Tuy là một trong những địa điểm quan trọng của các thánh tích, nhưng Lâm Tỳ Ni trong nhiều tháng năm đă bị bỏ hoang. Dầu ngày nay điêu tàn, nhưng vào lúc đại đế A Dục đến viếng, th́ nơi đây vẫn c̣n là một thôn xóm thịnh vượng có nhiều cảnh trí nên thơ. Nhà vua cho dựng bốn ngọn tháp và một trụ đá bằng sa thạch có tượng một con ngựa trên đầu trụ, tiếc rằng di tích ngày nay không c̣n nguyên vẹn, đă bị mất đầu. Trên trụ đá ngày nay vẫn c̣n hàng chữ có ư nghĩa rằng: "Sau hai mươi năm lên ngôi, vua Priyadarsi (tức A Dục), người được chư thiên yêu mến, đă thân hành viếng thăm và cúng dường lễ bái nơi đây, bởi đức Phật, thánh nhân ḍng họ Sakya, đă được sinh ra nơi đây."

Lâm Tỳ Ni đă từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như ngài Pháp Hiển thế kỷ V, ngài Huyền Trang thế kỷ VII, kể cả ngài Minh Châu thế kỷ XX… đă từng đến đảnh lễ chiêm bái và ghi chép lại nhiều điều trong những cuốn Phật Quốc kư hay hồi kư hành hương. Theo hồi kư của ngài Minh Châu th́: "Ngày xưa cảnh vật tươi đẹp bao nhiêu, th́ ngày nay khu vườn lại tàn tạ tiêu điều bấy nhiêu. Mặc dù có cây cối đền tháp, nhưng cảnh trí không được huy hoàng như xưa và nhất là không được tốt đẹp như các thánh tích thuộc chinh phủ Ấn Độ mà tôi đă chiêm bái. Chánh phủ Nepal đang cố gắng sửa sang lại thánh tích này…" Những cuộc chiến tranh tôn giáo đă tàn phá thánh tích Phật Giáo này và đưa nó quên lăng hơn sáu thế kỷ. Vào những thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, Lâm Tỳ Ni đă được Phật Giáo thế giới quan tâm có kế hoạch trùng tu rất khả quan. Lâm Tỳ Ni, nơi thiêng liêng mà Phật giáo bắt nguồn vào năm 624 trước TL., đă một lần nữa trở thành một trong những thánh tích tôn giáo lớn nhất thế giới.

Ngày nay, di tích chính của toàn khu vực là đền thờ Hoàng hậu Maya Devi bên trên một nền tháp cũ. Trong đó có ghi lại địa điểm chính xác nơi đức Phật đản sinh, phía trên là bức phù điêu chạm h́nh Maya sinh Thái tử. Bức phù điêu diễn tả hoàng hậu đang giơ một tay vịn cành cây với một đứa bé đứng thẳng người trên một toà sen, phóng một ṿng hào quang tṛn quanh đầu, trong khi hai nhân vật thượng giới đang tưới nước và răi hoa từ những bảo b́nh để cúng dường. Bức phù điêu này đă được vua Malla của triều đại Naga dâng cúng, một triều đại đă cai trị vùng Karnali của Nepal vào thế kỷ XI đến XV. Đền thờ này bên trên c̣n rất mới trong khi nền đá dưới hiện rơ nét rêu phong, nhiều nơi muốn sụp đỗ phải có giá sắt chống đỡ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đền thờ này được xây dựng trên nền của một ngôi tháp do chính vua A Dục cúng dường. Ngôi tháp này, theo ngài Huyền Trang trong Tây Du Kư, chính là ngôi tháp kế bên trụ đá đánh dấu nơi vua trời Đế Thích đă đưa tay đỡ Thái tử khi hạ sanh.

Sau khi đảnh lễ nơi thiêng liêng và đi nhiễu ba ṿng trong im lặng, chúng tôi đă đi ra phía ngoài để chiêm ngưỡng các di tích cổ kính khác. Không xa trụ đá là một hồ nước đánh dấu nơi hoàng hậu tắm sau khi sinh. Đứng từ xa nh́n lại dưới bầu trời u huyền lất phất vài giọt mưa bay, hồ nước phủ màu rêu xanh vô cùng nên thơ in bóng cây Bồ Đề cổ thụ bên cạnh. Trầm ḿnh quanh đây là một số nền tháp đă được khai quật, nó gợi lên trong ta những h́nh bóng của một thời vàng son giữa cảnh tiêu điều, xanh cỏ.

Bước ra ngoài phạm vi đền thờ, chúng tôi đă tắm ḿnh trong không khí mát dịu của khu vườn Lâm Tỳ Ni rộng lớn. Tuy không c̣n muôn hoa cỏ lạ, nhưng từng khu vực quy hoạch, từng thảm cỏ xanh được chăm sóc cẩn thận, những hồ nước rộng với bờ cỏ thoai thoải… làm nên một nền tảng thi vị lai láng cho toàn cảnh cổ tích giữa hiện thời. Chúng tôi cứ tiếp tục đi, ra dần đến chỗ ngọn đuốc vĩnh cửu, rồi đi thăm các chùa được xây dựng trong khu vực Lâm Tỳ Ni. Xưa nhất có thể nói là chùa Tây Tạng. Các chùa ở đây được chia thành hai khu vực về hai phía, mà cứ nh́n lên bảng hướng dẫn sẽ thấy, một nhóm theo truyền thống Theravada, một nhóm các chùa theo Đại Thừa Phật Giáo.

Buổi trưa, rời Lâm Tỳ Ni, đoàn lên xe tiếp tục đi chiêm bái di tích thành Ca Tỳ La Vệ. Những thánh tích mà nhóm chúng tôi đă chiêm bái vừa qua, nơi nào cũng để lại những cảm giác vừa hân hoan vừa xúc động, cảm khái đậm đà pha lẫn chút xót xa v́ lớp bụi thời gian phủ phàng bôi xoá. Tuy nhiên, chưa có nơi nào đă gợi lại trong tâm thức mỗi người sự buồn tẻ thê lương một cách tột độ như đến di tích thành Ca Tỳ La Vệ. Trên đường đi, những “nhà chiêm bái" trẻ đă thật náo nức, hồi hộp, thầm vọng tưởng về một kinh đô xa hoa, tráng lệ với nhưng thành quách, cung điện, nào là phố xá đông vui, nào là cuộc sống vương giả, v.v. của thời xưa cũ. Tự nhiên mọi người cũng nhau cất vang bài ca mà các em Gia Đ́nh Phật Tử thường hát: "Từ ngàn xưa, vương thành Ca Tỳ La Vệ…". Nhưng, ánh mắt đầu tiên nh́n thấy hiện trạng của chính nơi có một thời vang bóng, trong chúng tôi như chết đi một phần hy vọng, bởi sự vô t́nh của thời gian thật quá tàn nhẫn. Tất cả vẻ đẹp được mô tả chỉ c̣n lại trong thơ và nhạc. Ca Tỳ La của ngày xưa nay chỉ là một rừng cây, rải rác vài ḥn gạch lơ thơ nhuốm màu rêu phong xanh xám. Một vài tấm bảng ghi lại những nơi quan trọng, mà mắt thấy chỉ là những nền gạch đổ nát, hay đàng hoàng hơn là những mô gạch được xây đắp thêm vào sau này.

Theo ḍng lịch sử, tại di tích quan trọng này, Thái tử Tất Đạt Đa đă sống một thời gian dài (29 năm theo Nguyên Thỉ hay 19 năm theo Đại Thừa). Không chỉ Ngài mà các vị Phật quá khứ cũng có vị thị hiện đản sanh ở đây như Phật Câu-na-hàm-mâu-ni và Phật Câu-lưu-tôn. Kể từ khi Thái tử Tỳ Lưu Ly đánh phá và tàn sát ḍng họ Thích Ca v́ bị rẻ khinh về giai cấp xuất thân, thành Ca Tỳ La đă đi vào hoang tàn, đổ nát. Dầu vậy, vẫn có một số người v́ cảm niệm thâm ân Phật tổ đă đến đây xây dựng đền kỷ niệm. Căn cứ theo tài liệu của Ngài Huyền Trang th́ Ngài kể rất tỉ mỉ hiện trạng khi Ngài đến đây: “Nước này có chu vi khoảng hơn 4000 lư. Trong đó có trên 10 thành phố đều hoang phế và điêu tàn tột độ. Thủ đô cũng bị đất lấp và đổ nát. Cấm cung nằm trong thủ đô và có chu vi khoảng 14, 15 lư. Hoàng cung được xây dựng bằng gạch đỏ. Những nền tường vẫn c̣n cứng cáp và cao. Nơi này có lẽ đă bị bỏ phế từ lâu, những làng mạc có dân cư rất là ít vào tiêu điều. Nơi đây, không có ai trị v́ cả; mỗi một phố có một người trưởng phố riêng. Đất đai màu mỡ và được khai thác theo từng mùa . Người dân ở đây rất hiền và ngoan ngoăn. Có lẽ có trên 1000 tăng xá bị bỏ hoang. Gần nơi cung thành vẫn c̣n một tăng xá có khoảng 3000 Phật tử đang tu học theo truyền thống Tiểu Thừa…” Ngài c̣n đánh dấu và chỉ ra, đây là cấm cung của vua Tịnh Phạn, kia là đền nơi hoàng hậu Maya cư ngụ, này là tháp kỷ niệm nơi nhà tiên tri A Từ Đà chiêm tướng cho Thái tử, kia là tháp đánh dấu nơi Thái tử thi tài cùng các vương tử họ Thích, hoặc các đền ghi lại nơi Thái tử cư ngụ, nơi Thái tử rời cung đi dạo bốn cửa thành, nơi đánh dấu sự kiện ngày lễ hạ điền, nơi đánh dấu ḍng họ Thích bị sát hại, nơi hội ngộ lần đầu tiên của Thế Tôn với vua cha sau khi thành Đạo, v.v. và v.v.

Dĩ nhiên, từ khi ngài Huyền Trang chiêm bái đến nay đă bao nhiêu thế kỷ, Ca Tỳ La lại rơi vào bao cuộc chiến tranh, bao thăng trầm thế cuộc, cho nên những ǵ mà Ngài kể chỉ c̣n lại trong kư ức. Thảm cảnh chiến tranh vẫn c̣n đeo đẳng với Ca Tỳ La cho đến ngày nay. Bằng chứng là khi nhóm chúng tôi đến, nh́n hai bên lối vào thấy rất nhiều ụ quân sự, dây thép gai bao bọc, lô cốt dựng lên, súng ống xếp hàng chỉa ra đường, lính tráng mặc áo quần rằng ri bố ráp đầy dẫy, cũng may là trên khuôn mặt họ không lộ vẻ hiếu chiến mà chỉ là bảo vệ an ninh. Họ vẫn mỉm cười thật tươi chào lại khi thấy mấy thầy tu trẻ Việt Nam đưa tay chào họ.

Khi phái đoàn ngài Minh Châu tới chiêm bái, nơi đây cũng chẳng c̣n ǵ, ngoài những "đồi rất cao có thể là đền đài ngày xưa. Hiện tại, toàn vùng bị cây cối mọc bao trùm. Chúng tôi chỉ thấy xa xa một khu rừng rậm rạp. Đến gần nh́n thấy nhiều gạch đá vụn, có lẽ đây là một khu nhà rộng lớn của thành." Cũng y như nhận xét của Ngài, cái nh́n và cái cảm giác xót xa dâng tràn trong ḷng chúng tôi từ khi bước vào đây cho đến lúc rời bước trở về chùa Việt Nam.

Buổi tối, đây có lẽ là đêm cuối cùng ở đất Nepal và là đêm cuối được nghỉ ngơi trong chuyến hành tŕnh, v́ tối mai là ngủ trên tàu rồi. Có thể xem như là đêm ăn mừng cho một kết quả của chuyến đi tương đối suông sẻ, và đồng thời cũng họp mặt với các anh thợ hồ đang sống tha hương nhớ nhà. Buổi văn nghệ cây nhà lá vườn được nhanh chóng triển khai với một nồi chè đậu thật to. Không sợ mang tiếng "vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm", v́ chúng tôi biết thầy trụ tŕ rất thương và thông cảm cho tuổi trẻ. Mỗi lần có sự hội ngộ nào mà có mặt thầy ở nhà, thầy cũng sẽ tổ chức liên hoan chè bánh, văn nghệ nhà chùa rất đậm t́nh. Các anh thợ người Huế đă trổ tài nghệ sĩ của ḿnh rất nồng nhiệt, thậm chí có anh vốn liếng chỉ có một bài, mà khi được yêu cầu, anh phải "ngậm ngùi" hát lại lần hai. May cho đêm “văn gừng” bất đắc dĩ là cây đàn guitar không chủ cũng có người nâng phím, đó là một thầy trẻ từ Sài G̣n mới qua khoảng một tuần. Đáp lại sự mến mộ của chủ, những người khách cũng không ngại ra tay góp vui đủ thể loại, mà loại nào cũng "đứt". Có nghĩa là hễ hát là đứt nửa chừng, cũng có nghĩa là cười muốn đứt hơi. Cuộc vui cũng đến lúc tàn,v́ chúng tôi phải nghỉ sớm để ngày mai lại vượt biên giới, c̣n các anh thợ phải giữ sức khoẻ để làm việc. Ai cũng lộ vẻ tiếc nuối, nhất là có anh thợ đă tâm sự như thay lời kết: "Thưa quư thầy, chưa có đêm nào chúng con vui như đêm này!"

8 giờ sáng, ngày 08-6, đoàn bắt đầu trở về biên giới Ấn Độ để đến ga tàu Gorakhpur trở về Delhi. Chuyến đi của nhóm có phần giống như truyện Tây Du của Ngô Thừa Ân ở phần cuối, đó là nạn thứ chín chín tám mốt. Theo dự kiến là 4 giờ chiều lên tàu, sáng mai sẽ tới Delhi (*và tối dự lễ khai mạc World Cup luôn), nhưng kết thúc đă không như ư. Ngủ một đêm trên tàu, thức ăn mang theo đều được giải quyết sạch. Sáng ra mới biết một tin hấp dẫn, "trễ tàu". Đúng vậy, mọi người phải lấy năng lượng tâm linh vừa thu được sau chuyến hành tŕnh để làm vui với một ngày đói bụng và nóng bức v́ tàu dừng lâu nên không chạy máy lạnh. Toa lạnh mà không bật máy lạnh th́ dĩ nhiên trở thành ḷ nướng giữa trưa hè rồi, v́ có lối thoát không khí nào cho gió vào đâu.

Thay v́ 6 giờ sáng, măi đến 6 giờ chiều ngày 09-6, chúng tôi mới về đến Delhi trong tâm trạng thật hân hoan, thoải mái. Bởi chuyến đi theo thời gian có đi, có về, nhưng chuyến đi theo hành tŕnh tâm linh của chúng tôi vẫn c̣n tiến bước, không có khởi đầu, không có kết thúc.
 

Trân trọng ghi lại đôi ḍng
Mục Đồng

         Trang Văn Thơ: Trần Thanh Thiên

                 

                                     1  2  3   4  5