Phần 1:
Xứ Ninh, tức Ninh Hòa xưa có tên
là phủ Thái Khang chạy dài từ Ðèo Cả đến Ngọc Diêm, rộng khoảng
2.051km2 gần bằng phân nửa diện tích tỉnh Khánh Hòa.
Tỉnh Khánh Hòa thuộc miền Nam
Trung Phần nằm giữa vĩ tuyến 12 và 13, chạy dọc bờ biển từ Ðèo Cả
đến mũi Cà Tiên dài khoảng 120km, phía Ðông giáp biển, phía Tây
giáp Ðắc Lắc, Tuyên Ðức, núi rừng chiếm 15/16 diện tích, hình dạng
giống như cái bầu rượu, dưới chân núi Ðại Lãnh rộng chưa tới 1km,
vùng Ninh Hòa, Diên Khánh, Vĩnh Xương có chỗ rộng tới 5, 6 chục
km, vùng Cam Lâm còn chừng 15km.
Theo sách Non Nước Khánh Hòa viết
năm 1968, diện tích toàn tỉnh là 5.997 km2, bằng 1/60
diện tích toàn quốc, chia ra như sau:
Vạn Ninh: 618 km2
Ninh Hòa: 1049 km2
Khánh Dương: 1384 km2
Vĩnh Xương: 296 km2
Diên Khánh: 1364 km2
Cam Lâm: 948 km2
Cam Ranh: 338 km2
Hiện nay, tỉnh Khánh Hòa có huyện Vạn Ninh, Ninh Hòa, Khánh Vĩnh,
Diên Khánh, Khánh Sơn, quần đảo Trường Sa, thành phố Nha Trang, và
thị xã Cam Ranh. Hải cảng Cam Ranh là một quân, thương cảng nổi
tiếng trên thế giới.
Diện tích xứ Ninh là 2.051 km2
(đã trừ đi 1000 km2 của tỉnh Ðắc Lắc sáp nhập vào quận
Khánh Dương, cộng thêm 290 km2 bị cắt giao cho tỉnh
Ninh Thuận).
Núi Non xứ Ninh trùng điệp có
nhiều hoành sơn ăn ra tận biển làm cho xứ Ninh đẹp như một bức
tranh sơn thủy:
Ðường vô xứ Vạn
xứ Ninh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
K hi đến địa đầu tỉnh Khánh Hòa, du khách lọt vào một vùng núi
non hiểm trở nối tiếp nhau chạy đến sát biển có ngọn cao gần 2.000
m quanh năm mây phủ, là bức thành thiên nhiên vĩ đại, ranh giới
của 2 tỉnh Phú, Khánh, thời vua Lê Thánh Tôn (1470) có tên là núi
Thạch Bi, núi Ðá Bia, nay là núi Tam Phong, núi Ðại Lãnh, núi Ðèo
Cả.
Chiều chiều mây
phủ Ðá Bia
Ðá Bia mây phủ cô kia mất chồng
NÚI ÐÈO CẢ: cao 407 m nằm sát biển.
Ðèo Cả băng qua núi này dài
khoảng 10 km chạy ngoằn nghoèo giữa một bên là vách núi cheo leo,
một bên là Vũng Rô sâu thăm thẳm. Ðường hầm xe lửa ăn thông qua
lòng núi. Trên đỉnh đèo xưa kia có trạm Phú Hòa, nơi dừng chân của
khách bộ hành trên đường thiên lý, có quán nước nhà trạm bằng
tranh, có những người phu trạm lực lưỡng. Ðứng trên đèo nhìn về
phía Nam, thấy xa xa là Ðại Lãnh, Tu Bông.
Phong cảnh Ðại Lãnh nổi tiếng từ
lâu. Năm 1836 Vua Minh Mạng sai chạm hình Ðại Lãnh vào Tuyên đỉnh,
là 1 trong 9 đỉnh bằng đồng để trước sân Thế Miếu ở Cố Ðô. Năm
1853 thời vua Tự Ðức, Ðại Lãnh được liệt vào Tự Ðiển.
Qua khỏi Ðèo Cả du khách vào đến
núi Ðại Lãnh.
NÚI ÐẠI LÃNH: cao 626 m nhiều đá,
cây cối dày đặc nằm thu mình vào trong nhường chỗ cho ga Ðại Lãnh.
Núi chạy dọc theo bờ biển nối liền đèo Cả với đèo Cổ Mã.
Ðèo Cổ Mã băng qua núi Cổ Mã,
thấp, ngắn, chạy sát biển, cách đèo Cả độ 4 km, phong cảnh nên thơ.
NÚI CỔ MÃ từ ngoài biển nhìn vào có
hình thể giống như cổ ngựa. Sát liền với núi Ðại Lãnh và núi Cổ Mã
là núi Ðồng Cọ (Phú Mỹ).
NÚI ÐỒNG CỌ: cao chót vót thường có
mây mù bao phủ, buổi chiều hay mưa, nên có câu "Mưa Ðồng Cọ". Nối
liền với núi Ðồng Cọ có núi Xá.
NÚI XÁ: cao 680 m, tên chữ là Tô Hà,
dưới chân núi xưa kia có trạm Hòa Mã nay là Quốc lộ 1. Ði xe lửa
vào khi chui khỏi hầm Cổ Mã du khách sẽ thấy núi Xá nằm bên tay
phải, tiếp theo núi Xá là núi Hoa Sơn.
NÚI HOA SƠN: cao
728 m ở phía Tây Tu Bông (Vạn Khánh) xưa gọi là Hoa Sơn hay Tô Sơn,
sau đọc trại thành Tu Hoa, Tu Bông, chạy dài từ Tu Bông đến Gành
Bà. Dưới chân núi là đường Gia Long, có truông Hụt, nay gọi là
truông Tân Dân vì truông chạy qua thôn này. Nơi này xưa kia nổi
tiếng nguy hiểm vì có nhiều cọp thường ra rình bắt khách bộ hành,
nên ai qua truông được bình an thì cũng giống như người chết hụt
vậy, đặt truông Hụt là có ý nghĩa như thế. Giữa núi Xá và núi Hoa
Sơn có nguồn sông Tu Bông, trên nguồn có Ðập Sổ, nguồn này ăn sâu
vào núi Ðồng Cọ.
Gành Bà ở dưới chân núi cách biển gần 3km,
gọi Gành Bà là vì xưa kia biển ă n
sát chân núi, những tảng đá to bị sóng gió đánh mòn lẳn hiện vẫn
còn, có 1 cái hồ rất lớn chảy theo mương Vĩnh Huề vào cánh đồng Tứ
Chánh, Mỹ Cang.
Tu
Hoa hay Tu Bông nổi tiếng nhiều gió do ở phía Tây Bắc địa hình
đang cao như một bức trường thành bỗng nhiên có một chỗ hạ thấp
xuống thành thung lũng, nên gió Lào, gió Bấc tha hồ thổi. Gió Lào
(vào mùa Hạ) thổi qua Tu Hoa nên có câu "Gió Tu Hoa". Gió Bấc (vào
mùa Ðông) thổi qua thung lũng phía Tây Bắc nơi đó gọi là Eo Gió.
Gió Lào gió Bấc đều thổi tới Tu Bông nên Tu Bông có tên là Tụ
Phong Xứ, nghĩa là nơi tụ gió, gió thổi ào ào suốt ngày suốt tháng.
Ðến Tu Bông du khách nghe 2 câu hát ru em phổ biến:
Gió đâu bằng gió Tu Bông
Thương ai bằng thương cha, thương
mẹ, thương chồng, thương con
Bước lên Ðèo Cả
Trông vào Vạn Giã, Tu Bông
Biết
rằng cha mẹ đành không?
Anh
chờ em đợi uổng công hai đàng
Qua khỏi Gành Bà đi lên là núi
Dốc Mỏ.
NÚI DỐC MỎ cao 1.015 m, tại núi này có con đường
mòn xuyên sơn đi qua Phú Yên, những năm kháng chiến
1945-1954 giặc Pháp bỏ thây tại đây rất nhiều.
Năm 1947, cụ Mai Phong có làm một bài thơ trên đường tản cư chạy
giặc như sau:
Dặm
đường Dốc Mỏ nghĩ mà ghê
Chồng chất non cao đá tứ bề
Chim thú vắng tanh cây rậm rạp
Gió mưa ròng rã nước lê thê
Lên đèo vượt suối bao nguy hiểm
Gối gió nằm sương đã chán chề
Trăm đắng ngàn cay ta chẳng nệ
Quyết dành độc lập sớm đem về.
Từ Dốc Mỏ đi vào là núi
Hóc Chim.
NÚI HÓC CHIM: cao 903 m ở phía Tây
Vạn Giã chỗ ga xe lửa đi lên. Qua khỏi núi sẽ đến thôn Xuân Sơn
chẳng khác gì một Trùng Khánh hay một Ðiện Biên Phủ vì tứ bề núi
non bao bọc chỉ có 1 con đường độc đạo đi ra.
NÚI BỒ ÐÀ: còn gọi là Phổ Ðà cao 292
m thuộc thôn Xuân Tự, xã Vạn Hưng, trông giống như con voi, sườn
núi lồi lõm, phía Ðông có một ngọn núi nhỏ hơn tên Dốc Thị.
Năm 1956, Thượng Tọa Viên Giác xây dựng ngôi chùa Giác Hải và Điện
Nam Hải Quan Âm trên núi Phổ Đà:
Ai ngang qua núi Phổ Đà
Thăm chùa Giác Hải viếng tòa Quan Âm
(Thanh Trúc)
NÚI DỐC THỊ: tên chữ là Phiên Lê,
Quốc lộ 1 băng qua núi này tại đèo Dốc Thị.
Ðèo Dốc Thị, tức đèo Xuân Tự chỉ
như một con dốc.
Núi Bồ Ðà và núi Dốc Thị trông
giống như hai chị em. Thời Pháp, nghĩa quân Cần Vương do Trần
Ðường chỉ huy đóng tại núi Bồ Ðà khống chế đèo Dốc Thị để chống
giặc Pháp còn ghi những chiến công oanh liệt.
NÚI
CHÙA: thấp, cùng một sơn mạch với Bồ Ðà, Dốc Thị còn lưu ít dấu
tích thành lũy Chiêm Thành, trên núi xưa kia có một ngôi chùa.
NÚI QUÁN: còn gọi là núi Mỹ Ngọc,
núi Dàn, cao 473m, mặt Tây núi trùng điệp chạy tới Hòa Quỳnh. Xưa
có một vị Thiền sư tu trên núi đã giúp khách bộ hành có chỗ nghĩ
chân, ngài che một quán tranh dưới chân núi cạnh đường thiên lý.
Những gò đống dưới chân núi có 9 nổng đất cao gọi là Chín Cụm.
NÚI ÐÁ ÐEN: cao 617 m thuộc xã Vạn
Hưng, nằm ở phía Tây núi Quán giáp huyện Ninh Hòa. Màu đá đen cháy,
có nhiều chướng khí từ trong khe núi bốc ra. Trên núi hiện còn
những dấu tích thành lũy Chiêm Thành gọi là Thành Hời. Dưới chân
núi là láng Chu và cánh đồng của thôn Xuân Sơn, vùng này xưa kia
là bãi chiến trường oan khí tích tụ lâu ngày sinh ra quỷ quái.
Giáp với núi Hoa Sơn và núi Ðồng
Cọ về phía Tây là núi Ba Non, sách Ðại Nam Nhất Thống Chí ghi là
núi Tam Phong.
NÚI TAM PHONG: nằm giữa 2 tỉnh Phú,
Khánh gồm có 3 ngọn cao chót vót nên dân địa phương gọi là núi Ba
Non:
Ngó lên đỉnh
núi Ba Non
Công cha nghĩa mẹ làm con phải đền
(Ca dao)
Ba ngọn đó là:
HÒN GIỮ còn
gọi là Trấn Sơn, cao 1.264 m.
HÒN NGANG
còn gọi là Hoành Sơn, cao 1.128 m.
HÒN GIÚP
còn gọi là Hòn Giút, hay Hộ Sơn, cao 1.127 m.
C hung quanh, nhiều
núi non triều quy có hùng khí ngất trời nằm giáp tỉnh Phú Yên,
thuộc hệ thống dãy núi Vọng Phu. Núi Ba Non giáp với núi Hòn Ðá
Chồng, Hòn Ông, Hòn Chúa ở Phú Yên, ở giữa có đèo Cục Kịch là con
đường mòn xuyên sơn qua lại giữa hai tỉnh trước khi có đường
đi qua đèo
Cả, mà người ta thường gọi là đường Gia Long. Thế núi hùng vỹ,
ngày xưa triều đình nhà Nguyễn có đặt điển lệ, hàng năm quan đầu
tỉnh phải đích thân đến tận nơi cúng tế rất trọng thể.
Đọc:
Xứ Ninh Núi Non -
Phần 2
Phần 3
Khái Quát

VINH HỒ
(Orlando, Tháng 7/2004)
Tài liệu tham khảo:
- Non Nước Khánh Hòa, Nguyễn Ðình Tư, Nhà xuất bản Thanh Niên,
2003.
- Xứ Trầm Hương, Quách Tấn, Hội Văn Học Nghệ Thuật Khánh Hòa, tái
bản lần thứ hai năm 2002.
- Các đặc san Khánh Hòa-Nha Trang tại Nam California, Bắc Cali,
Texas, Florida (nhiều số).

|