Khi lúa bắt đầu chín, bắp đã héo râu, người nông dân quen cầm
cày hơn cầm cọ, một hôm bỗng lấy hai thanh tre một dài một ngắn
cột thành hình chữ thập như thánh giá. Rồi ông ta lấy rơm cuộn
tròn như trái bưởi, bọc lại bằng những mảnh vải cũ, và với đôi
tay không một chút tài hoa, ông vẽ hai con mắt giống như hai con
cá ươn, thêm một cái miệng khá to như đang hả họng ra gào. Ông
mặc cho nó cái áo cũ của chính mình, đội cho nó một chiếc nón
cời, rồi đem cái hình nhân ngộ nghĩnh đó ra vườn hay ra ruộng.
Nếu lúc ấy trời có gió, thằng bù nhìn múa may trông như thật với
hai cánh tay dang ra, cái nón lắc lư và cái áo đôi lúc phồng
lên như đang ưỡn ngực ra một cách oai vệ. Lũ chim trông thấy nó
khác gì như ta trông thấy cọp. Để xua đuổi lũ két lì lợm, ông
đeo thêm một cái mõ tre hay một chùm lục lạc. Thằng bù nhìn
không mặc quần nhưng nó không hề biết mắc cỡ và cũng chẳng ai
thấy vậy là tục tĩu, vì bên dưới là lúa đang chín vàng rực và
bắp đang phơi những trái no tròn.
Dưới nắng gió và trăng sao, những thằng bù nhìn kiên nhẫn đứng
canh những giọt mồ hôi và nước mắt của người nông dân để không
bị ai cướp cho dù kẻ cướp ấy là lũ chim đáng yêu. Nhưng đó là
những ngày xa xưa khi chim mía, chim sẻ, chim cúc cu, chim két
bay đầy trời. Cả ngàn con chỉ trong chớp mắt đã có thể cướp đi
bao nhiêu hạt gạo hạt bắp. Còn bây giờ đào đâu ra những thằng bù
nhìn khi trên các bàn nhậu vàng tươm những đĩa chim rô ti, chim
nướng thơm phức!
Không còn chim, biết bao loài sâu yêu ma quỷ quái cắn phá đồng
ruộng từ khi mạ mới gieo, bắp mới đâm chồi. Xuất hiện trên cánh
đồng không phải là những thằng bù nhìn mà chính là những người
nông dân cũng với chiếc áo rách, cái nón cời nhưng có thêm một
bình đựng đầy thuốc trừ sâu mang trên lưng. Anh ta kiên nhẫn lắc
cái cần bơm rải chất độc trên lúa non và bắp đỗ. Anh lầm lũi đi
trong nắng, khuôn mặt anh cũng buồn như mặt thằng bù nhìn do ông
cha anh ta vẽ. Anh đi từ năm này qua tháng nọ, hít lấy cái mùi
hoá chất giết người nồng nặc mà không biết hay có biết cũng
không thể làm gì hơn rằng chính anh đang đi trên bờ huyệt của
đời mình. Bây giờ, anh ao ước còn có lũ chim, thà rằng chia cho
chúng một ít thóc, một ít bắp vẫn hơn là chia bớt buồng tim lá
phổi cho những tập đoàn hoá chất.
Có một nghịch cảnh lạ lùng trong thời đại chúng ta. Ấy là khi
không còn những thằng bù nhìn đáng yêu trên đồng ruộng thì lại
xuất hiện nhan nhản những thằng bù nhìn mặt bóng lưỡng bụng đầy
bia óc ách trong đời sống xã hội. Chúng nó mặc áo quần bảnh choẹ
đi giày da bóng lộn ngồi trong xe đời mới. Không cần gió chúng
vẫn múa may, gào thét. Chúng nhởn nhơ trên đường phố, trong nhà
hàng, rạp hát, trên sân khấu, trong trường học nhà thương…Chúng
như nhặng như ruồi trên những bãi rác khổng lồ. Chúng xuất hiện
ở đâu là ở đó những sân gôn xanh mướt mọc lên, là xóm làng vắng
bóng trai cày, là trẻ con thiếu ăn ốm đói, là điện cúp, nước máy
không chảy, là phao ném tới tấp vào phòng thi, là những người
già không con cháu nằm lê lết trên các hành lang bệnh viện, với
khuôn mặt còn buồn hơn mặt thằng bù nhìn ngày xưa, là cảnh mua
quan bán chức náo nhiệt như phiên chợ tết, là điện thoại di động
réo liên tục như cơm sôi…
Vậy đó, phải chi có một buổi sớm mai thức dậy được nghe tiếng
chim hót trên đầu hiên nhà, sẽ lại thấy những thằng bù nhìn đáng
yêu và biến mất những thằng bù nhìn đáng ghét. Có vô vọng chăng?
… ?
˜
{
™ @ …